Địa chỉ mới của blog:van-hay.blogspot.com
Breaking News
Loading...
Monday, January 12, 2015

Kiến thức cơ bản tác phẩm Tuyên ngôn Độc lập

1:45 AM
Kiến thức cơ bản tác phẩm Tuyên ngôn Độc lập




Hoàn cảnh lịch sử


19/8/1945 chính quyền ở thủ đô Hà Nội đã về tay nhân dân ta. 23/8/1945, tại Huế trước hàng vạn đồng bào ta, vua Bảo Đại thoái vị. 25/8/1945, gần 1 triệu đồng bào Sài Gòn - Chợ Lớn quật khởi đứng lên giành chính quyền. Chỉ không đầy 10 ngày, Tổng khởi nghĩa và Cách mạng tháng Tám đã thành công rực rỡ.


Cuối tháng 8/1945, tại căn nhà số 48 phố Hàng Ngang, Hà Nội, lãnh tụ Hồ Chí Minh soạn thảo bản Tuyên ngôn Độc lập. Và ngày 2/9/1945; tại quảng trường Ba Đình, Hà Nội, Người thay mặt Chính phủ Lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, đọc bản Tuyên ngôn Độc lập trước hàng chục vạn đồng bào ta, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, mở ra một kỷ nguyên mới Độc lập, Tự do.

Bố cục

1. Cơ sở pháp lý và chính nghĩa của bản Tuyên ngôn Độc lập (Từ đầu đến “không ai chối cãi được”)

2. Bản cáo trạng tội ác của thực dân Pháp và quá trình đấu tranh giành độc lập của nhân dân ta (“Thế mà hơn 80 năm nay… Dân tộc đó phải được độc lập!”)

3. Chính phủ Lâm thời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tuyên bố với thế giới (Phần còn lại).

Những điều cần biết

1. Cơ sở pháp lý và chính nghĩa của bản Tuyên ngôn Độc lập là khẳng định quyền bình đẳng, quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc của con người. Đó là những quyền không ai có thể xâm phạm được; người ta sinh ra phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi.

Hồ Chủ Tịch đã trích dẫn 2 câu nổi tiếng trong 2 bản Tuyên ngôn của Mĩ và Pháp, trước hết là để khẳng định Nhân quyền và Dân quyền là tư tưởng lớn, cao đẹp của thời đại, sau nữa là “suy rộng ra…” nhằm nêu cao một lý tưởng về quyền bình đẳng, quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do của các dân tộc trên thế giới.

Cách mở bài rất đặc sắc, từ công nhận Nhân quyền và Dân quyền là tư tưởng thời đại đi đến khẳng định Độc lập, Tự do, Hạnh phúc là khát vọng của các dân tộc. Câu văn “Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được” là sự khẳng định một cách hùng hồn chân lí thời đại: Độc lập, Tự do, Hạnh phúc, Bình đẳng của con người, của các dân tộc cần được tôn trọng và bảo vệ.

Cách mở bài rất hay, hùng hồn trang nghiêm. Người không chỉ nói với nhân dân Việt Nam ta, mà còn tuyên bố với thế giới. Trong hoàn cảnh lịch sử thời bấy giờ, thế chiến 2 vừa kết thúc, Người trích dẫn như vậy là để tranh thủ sự đồng tình ủng hộ của dư luận tiến bộ thế giới, nhất là các nước trong phe Đồng minh, đồng thời ngăn chặn âm mưu tái chiếm Đông Dương làm thuộc địa của Đờ Gôn và bọn thực dân Pháp hiếu chiến, đầy tham vọng.

2. Nội dung


a. Bản cáo trạng tội ác thực dân Pháp.

- Vạch trần bộ mặt xảo quyệt của thực dân Pháp “lợi dụng lá cờ tự do, bình đẳng, bác ái, đến cướp đất nước ta, áp bức đồng bào ta”.

- Năm tội ác về chính trị: 1- tước đoạt tự do dân chủ, 2- luật pháp dã man, chia để trị, 3- chém giết những chiến sĩ yêu nước của ta, 4- ràng buộc dư luận và thi hành chính sách ngu dân, 5- đầu độc bằng rượu cồn, thuốc phiện.

- Năm tội ác lớn về kinh tế: 1- bóc lột tước đoạt, 2- độc quyền in giấy bạc, xuất cảng và nhập cảng, 3- sưu thuế nặng nề, vô lý đã bần cùng nhân dân ta, 4- đè nén khống chế các nhà tư sản ta, bóc lột tàn nhẫn công nhân ta, 5- gây ra thảm họa làm cho hơn 2 triệu đồng bào ta bị chết đói năm 1945.

- Trong vòng 5 năm (1940 – 1945) thực dân Pháp đã hèn hạ và nhục nhã “bán nước ta 2 lần cho Nhật”.

- Thẳng tay khủng bố Việt Minh; “thậm chí đến khi thua chạy, chúng còn nhẫn tâm giết nốt số đông tù chính trị ở Yên Bái và Cao Bằng”.

b. Quá trình đấu tranh giành độc lập của nhân dân ta


- Từ mùa thu năm 1940, nước ta đã thành thuộc địa của Nhật chứ không phải thuộc địa của Pháp nữa. Nhân dân ta đã nổi dậy giành chính quyền khi Nhật hàng Đồng minh.

- Nhân dân ta đã đánh đổ các xiềng xích thực dân và chế độ quân chủ mà lập nên chế độ Dân chủ Cộng hoà. Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị.

- Chế độ thực dân Pháp trên đất nước ta vĩnh viễn chấm dứt và xoá bỏ.

- Trên nguyên tắc dân tộc bình đẳng mà tin rằng các nước Đồng minh “quyết không thể không công nhận quyền độc lập của dân Việt Nam”:

“Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn 80 năm nay, một dân tộc đã gan góc về phe Đồng minh chống phát xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do. Dân tộc đó phải được độc lập.

Phần thứ hai là những bằng chứng lịch sử không ai chối cãi được, đó là cơ sở thực tế và lịch sử của bản Tuyên ngôn độc lập được Hồ Chí Minh lập luận một cách chặt chẽ với những lí lẽ đanh thép, hùng hồn.

3. Lời tuyên bố với thế giới

- Nước Việt Nam có quyền được hưởng tự do và độc lập và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập (từ khát vọng đến sự thật lịch sử hiển nhiên)

- Nhân dân đã quyết tâm giữ vững quyền tự do, độc lập ấy (được làm nên bằng xương máu và lòng yêu nước).

Tuyên ngôn độc lập là một văn kiện lịch sử vô giá của dân tộc ta, thể hiện phong cách chính luận của Hồ Chí Minh

1. Cùng với bài thơ “Sông núi nước Nam” của Lý Thường Kiệt, “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi, bản “Tuyên ngôn độc lập”, phản ánh đúng diện mạo tinh thần và truyền thống chống xâm lăng của dân tộc Việt Nam trong trường kỳ lịch sử 4000 năm dựng nước và giữ nước.

2. Một lối viết ngắn gọn (950 từ). Có câu văn 9 từ mà nêu đủ nêu đúng một cục diện chính trị: “Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị”. Những bằng chứng lịch sử về 10 tội ác của thực dân Pháp và quá trình đấu tranh giành độc lập của nhân dân ta là không ai chối cãi được. Sử dụng điệp ngữ tạo nên những câu văn trùng điệp đầy ấn tượng: “Chúng lập ra nhà tù nhiều hơn trường học. Chúng thẳng tay chém giết những người yêu nước thương nòi của ta. Chúng tắm các cuộc khởi nghĩa của ta trong những bể máu”. Cách dùng từ sắc bén: “cướp không ruộng đất”, “giữ độc quyền in giấy bạc”, “quỳ gối đầu hàng… rước Nhật”, thoát ly hẳn… xoá bỏ hết… xoá bỏ tất cả…”. Hoặc “chúng tắm các cuộc khởi nghĩa của ta trong những bể máu”, v.v…

Nghệ thuật lập luận chặt chẽ, đanh thép, hùng hồn: “Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn 80 năm nay/ một dân tộc đã gan góc đứng về phe đồng minh chống phát xít mấy năm nay → dân tộc đó phải được tự do! Dân tộc đó phải được độc lập!” Một luận điểm, một lý lẽ được trình bày bằng 2 luận cứ, dẫn đến 2 kết luận khẳng định được diễn đạt trùng điệp, tăng cấp.

Tóm lại, “Tuyên ngôn độc lập” của Hồ Chí Minh góp phần làm giàu đẹp lịch sử và nền văn học dân tộc, tô thắm tinh thần yêu nước, khát vọng độc lập, tự do của nhân dân ta./.
ST​




*********************************************************************************************
TUYÊN NGÔN ĐÔC LẬP (Hồ Chí Minh)

 I . TÌM HIỂU CHUNG VỀ TÁC PHẨM . 

1 . Hoàn cảnh ra đời .

 Ngày 19 – 8 – 1945 chính quyền Hà Nội về tay nhân dân . 
Ngày 26 – 8 - 1945 Hồ Chí Minh từ chiến khu trở về Hà Nội . Tại căn nhà số 48 phố Hàng Ngang – Hà Nội Người đã soạn bản Tuyên ngôn độc lập . 
Ngày 2 – 9 – 1945 tại quảng trường Ba Đình – HàNội , Người thay mặt chính phủ lâm thời của Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa trịnh trọng đọc bản Tuyên ngôn độc lập trước đồng bào cả nước và thế giới . Bản Tuyên ngôn ra đời trong hoàn cảnh đó .

 2 . Ý nghĩa lịch sử của bản tuyên ngôn .

 Bản tuyên ngôn đánh dấu một sự kiện lịch sử trọng đại của đất nước . Tuyên bố chấm dứt chế độ thực dân , đánh đổ chế độ quân chủ lập hiến, lập nên nước Việt Nam dân chủ cộng hòa . Tuyên ngôn độc lập còn đập tan những luận điệu xảo trá của bọn đế quốc Mĩ, Anh, Pháp về việc khai hóa , bảo hộ để nhằm tái chiếm Đông Dương . 
Tuyên ngôn độc lập vừa giải quyết được nhiệm vụ độc lập dân tộc,lại vừa giải quyết được nhiệm vụ dân chủ cho nhân dân (“Dân ta lại đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỉ mà lập nên chế độ cộng hoà”), tức là bên cạnh chữ Độc lập lại có thêm chữ Tự do, mở ra một kỉ nguyên mới cho đất nước : kỉ nguyên độc lập, tự do .
 Đó là tư tưởng lớn , chân lí của thời đại mà sau này Bác đã đúc kết trong câu nói nổi tiếng : “Không có gì quí hơn Độc lập, Tự do” . Tuyên ngôn độc lập là kết quả của bao nhiêu máu đã đổ, bao nhiêu tính mệnh đã hi sinh, và là kết quả của bao nhiêu hi vọng . Tuyên ngôn là sự tiếp nối lời thơ sang sảng hào hùng của Lí Thường Kiệt . Ta nghe trong Tuyên ngôn độc lập âm vang của hồi kèn xung trận , của khúc ca khải hoàn trong Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi .

 3 . Vị trí của bản Tuyên ngôn trong tiến trình phát triển của lịch sử Van học .

 Tuyên ngôn độc lập là áng văn chính luận ngắn gọn, súc tích, lập luận chặt chẽ,lí lẽ đanh thép, lời lẽ hùng hồn đầy sức thuyết phục, đạt đến độ mẫu mực của văn chính luận . 

II . CƠ SỞ PHÁP LÍ CỦA BẢN TUYÊN NGÔN .

 Mở đầu bản tuyên ngôn , Hồ Chí Minh trích dẫn lời 2 bản Tuyên ngôn độc lập năm 1776 của Mĩ và Tuyên ngôn về nhân quyền và dân quyền của cách mạng Pháp năm 1791, khẳng định quyền tự do bình đẳng và quyền mưu cầu hạnh phúc của mọi người trên thế giới. Hồ Chí Minh trích dẫn lời hai bản tuyên ngôn nổi tiếng đó, một mặt thể hiện sự tôn trọng tư tưởng cách mạng của nhân dân Mĩ và Pháp , mặt khác đề cao quyền tự do, bình đẳng, quyền mưu cầu hạnh phúc của con người , coi đó là chân lí bất hủ của nhân loại, “như những lẽ phải không ai có thể chối cãi được” . 
Bằng việc trích dẫn lời của hai bản tuyên ngôn đó, Hồ Chí Minh đã lấy chính lời lẽ của cha ông chúng để đánh lại chúng, người ta gọi đó là thế “lấy gậy ông đập lưng ông” .
 Lấy lời lẽ của tổ tiên người Mĩ, người Pháp để khẳng định chân lí, khẳng định lẽ phải, khẳng định quyền tự do độc lập của dân tộc Việt Nam . Việc trích dẫn lời hai bản Tuyên ngôn của Mĩ và Pháp, Hồ Chí Minh tỏ ra hết sức kiên quyết bởi đó không chỉ là một lời nhắc nhở mà còn là lời cảnh báo hai tên đế quốc thực dân sừng sỏ hiếu chiến nhất thế giới, cũng là hai kẻ thù đang sẵn sàng xâm lược nước ta đừng phản bội lại chính tổ tiên của mình, đừng làm vấy bẩn lên lá cờ tự do, bình đẳng và nhân đạo của các cuộc cách mạng Pháp , Mĩ nếu nhất định xâm lược Việt Nam .
 Mở đầu bản tuyên ngôn của Việt nam mà nhắc đến hai bản tuyên ngôn nổi tiếng trong lịch sử nhân loại, Hồ Chí Minh tạo ra cuộc đối thoại ngầm với thế giới nhằm khẳng định tư cách độc lập của nhân dân, của dân tộc Việt Nam ở thời đại mới .
 Đặt ba bản tuyên ngôn ngang hàng nhau, ba cuộc cách mạng ngang hàng nhau, Hồ Chí Minh một lần nữa gợi lại niềm tự hào dân tộc, ta thấy thấp thoáng bóng dáng dân tộc trong tư thế hiên ngang thời Bình Ngô đại cáo, hơn thế nữa, cuộc cách mạng của dân tộc Việt Nam còn là sự hợp nhất hai cuộc cách mạng Pháp và Mĩ, bởi nó không chỉ đánh đổ chế độ phong kiến tồn tại hàng chục thế kỉ mà còn đánh đổ ách xâm lược của chế độ thực dân, giành độc lập dân tộc . Hồ Chí Minh không dừng lại ở quyền tự do, bình đẳng của cá nhân con người, bằng một từ “suy rộng ra”, Người đã nâng quyền lợi của con người thành quyền lợi của dân tộc . 
Tất cả các dân tộc đều có quyền tự quyết định lấy vận mệnh của mình . Đó là điểm tiến bộ, mới mẻ trong tư duy lí luận Hồ Chí Minh.

 III . CƠ SỞ THỰC TIỄN 

Không chỉ nêu lên cơ sở pháp lí nhằm khẳng định quyền độc lập chính đáng của dân tộc Việt Nam, bản tuyên ngôn còn xác minh bằng một cơ sở thực tiễn trần trụi những tội ác mà thực dân Pháp gây ra trong gần tám mươi năm xâm lược Việt Nam .
 Thực dân Pháp đã làm trái nguyên lí mà tổ tiên chúng đã nêu ra, nhưng chúng đã lợi dụng lá cờ tự do, bình đẳng, bác ái để hòng che giấu những hành động đó . 
Thực dân Pháp khoe khoang công “khai hoá văn minh” ở Đông Dương, nhưng thực chất chỉ là những trò bịp bợm . Bản tuyên ngôn đã lật tẩy bọ mặt xảo quyệt, tàn bạo đó bằng những lí lẽ xác đáng và những sự thật lịch sử không thể chối cãi được . 
Lí lẽ xác đáng : Hơn 80 năm nay, bọn thực dân Pháp lợi dụng lá cờ tự do, bình đẳng, bác ái đến cướp nước ta, áp bức đồng bào ta . Hành động đó của chúng trái hẳn với đạo lí và chính nghĩa . Sự thật lịch sử không thể chối cãi : bằng hình thức liệt kê, với hệ thống điệp từ điệp ngữ : chúng thi hành,chúng ràng buộc, chúng thẳng tay, chúng cướp ... tạo nên những câu văn trùng điệp , có kết cấu liên hoàn tạo nên mọt hệ thống luận điểm luận cứ , luận chứng khoa học làm bằng chứng để những thước phim tài liệu về tội ác của thực dân Pháp càng thêm nóng hổi , càng làm nổi bật sự bất bình đẳng về chính trị mà thực dân Pháp đã dựng lên ở Việt Nam : Chúng thủ tiêu mọi quyền dân chủ, chia rẽ ba kì để dễ bề cai trị, tắm máu các cuộc khởi nghĩa của nhân dân ta, thi hành chính sách ngu dân, đầu độc nhân dân bằng rượu cồn và thuốc phiện ...
 Về kinh tế, chúng bóc lột dân ta đến tận xương tuỷ, chèn ép tư sản dân tộc, đặt ra hàng trăm thứ thuế và cuối cùng làm cho hơn hai triệu đồng bào ta bị chết đói . 
Thực dân Pháp rêu rao công “bảo hộ” ở Đông Dương, song trong vòng năm năm chúng đã bán nước ta hai lần cho Nhật . Thực dân Pháp tuyên bố Đông Dương là của người Pháp và Pháp có quyền trở lại . Bản tuyên ngôn chỉ rõ : Dân tộc ta là thuộc địa của Nhật từ mùa thu năm 1940 . 
Chúng ta giành lại độc lập từ tay Nhật chứ không phải từ tay Pháp .
 Với lối lập luận chặt chẽ, sắc sảo, Hồ Chí Minh khơi gợi lại những tội ác của thực dân Pháp như những chứng tích lịch sử không thể phủ nhận, ta có thể liên tưởng đến những tội ác của giặc Minh trong Bình Ngô đại cáo. Khơi gợi lại bề sâu những đau thương mà thực dân Pháp gây ra, vạch trần những luận điệu xảo trá của chúng , bản tuyên ngôn tuyên bố thoát li và xoá bỏ mọi đặc quyền của Pháp trên đất nước Việt Nam .

 IV . LỜI TUYÊN BỐ ĐỘC LẬP .

 Bản tuyên ngôn khẳng định dân tộc Việt Nam hoàn toàn xứng đáng được hưởng tự do độc lập . Bởi dân tộc Việt Nam luôn đề cao chủ nghĩa nhân văn và một lòng yêu nước nồng nàn . Nếu thực dân Pháp có tội phản bội Đồng minh , hai lần bán nước ta cho Nhật thì dân tộc Việt Nam đại diện là Việt Minh đã đứng lên chống phát xít Nhật và cuối cùng giành được chủ quyền . 
Nếu thực dân Pháp đê hèn, tàn bạo và phản động, nhẫn tâm giết hại tù chính trị Việt Nam khi rút chạy thì nhân dân Việt Nam vẫn một mực khoan hồng, độ lượng với kẻ thù đã thất thế, vẫn sẵn sàng giúp đỡ người Pháp chạy qua biên thuỳ, bảo vệ tài sản và tính mạng của họ .
 Đây là truyền thống nhân đạo bao đời nay của dân tộc Việt Nam .(Đem đại nghĩa để thắng hung tàn, Lấy chí nhân để thay cường bạo) Một dân tộc đã phải chịu biết bao đau khổ dưới ách thực dân tàn bạo trong suốt hơn tám mươi năm, đã đứng hẳn về phe đồng minh chống phát xít mấy năm nay, đã nêu cao tinh thần nhân đạo chủ nghĩa, bác ái, đã đánh đổ chế độ thực dân, đập tan sự thống trị và nền tảng tư tưởng phong kiến tồn tại mấy mươi thế kỉ , dân tộc đó phải được tự do và độc lập và sự thật đã thành một nước tự do độc lập .
 Lời tuyên bố độc lập ăm ắp niềm tự hào, nó không còn là quyền ,là tư cách cần có nữa mà đã là hiện thực . Đó là kết quả của bao nhiêu máu đã đổ và vì thế dân tộc Việt Nam nguyện đem tất cả tinh thần, lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy .

V . Ý CHÍ ĐỘC LẬP, TỰ DO CỦA NHÂN DÂN VÀ TẤM LÒNG CỦA TÁC GIẢ .

Ý chí, khát vọng độc lập tự do được nói lên trong toàn bài, từ phần nêu cơ sở pháp lí ở đầu bài cho đến phần chứng minh nguyên lí ấy, nhưng rõ nhất là trong phần tuyên ngôn ở cuối bài, đặc biệt là ở đoạn : “Một dân tộc đã gan góc chóng ách nô lệ của Pháp hơn 80 năm nay, một dân tộc đã gan góc đứng về phe Động minh chống phát xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do ! Dân tộc đó phải được độc lập !” và đoạn : “Nước Việt nam có quyền hưởng tự do, độc lập, và sự thật đã trở thành một nước tự do, độc lập . Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do độc lập ấy .” 
Đây là lời của lãnh tụ Hồ Chí Minh. Là con người yêu nước số một của dân tộc Việt Nam, suốt đời đi “tìm hình cho Nước” (tức là đi tìm độc lập, tự do cho dân tộc), hơn ai hết, Bác thấu hiểu khát vọng độc lập, tự do và tin tưởng sắt đá vào ý chí quyết tâm giữ vững nền độc lập, tự do của nhân dân ta, vì vậy mà lời Bác chính là ý dân và ở đây, Người đã nói lên khát vọng và ý chí ấy của nhân dân ta một cách hào hùng, mãnh liệt, đầy niềm tin. Và những đoạn văn tâm huyết đó đã có tác dụng động viên, khích lệ mạnh mẽ đồng bào cả nước . 
Qua bản Tuyên ngôn độc lập, người đọc cảm nhận được tấm lòng của Bác thể hiện qua từng câu chữ, và nhất là trọng giọng văn vừa thiết tha, vừa hùng hồn, đanh thép : tấm lòng của một con người yêu nước nồng nàn và tự hào dân tộc mãnh liệt, khát vọng độc lập, tự do với ý chí quyết tâm giữ vững quyền tự do, độc lập ấy. Tấm lòng của Bác đã làm nên chất văn cho tác phẩm, khiến Tuyên ngôn độc lập không chỉ là một bài văn chính luận mẫu mực mà còn là một áng văn xúc động lòng người . 

Nguồn: Sưu tầm 


****************************************************************************************************


TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP
Hồ Chí Minh



I. Tìm hiểu chung
1. Hoàn cảnh lịch sử

- Ở miền Nam, thực dân Pháp nấp sau quân đội Anh (thay mặt quân Đồng minh vào giải giáp quân Nhật) đang tiến vào Đông Dương còn ở phía Bắc, bọn Tàu Tưởng và tay sai, đã trực sẵn ở biên giới. Bọn phản động tìm cách ngóc đầu dậy hòng lật đổ chính quyền cách mạng. 

- "Mâu thuẫn giữa Anh- Mỹ- Pháp và Liên Xô có thể làm cho Anh và Mỹ nhân nhượng với Pháp và để cho Pháp trở lại Đông Dương" (nhận định của Đảng trong Hội nghị toàn quốc ngày 15 tháng 8 năm 1945).

- Thời gian này, hội nghị Tê-hê-răng và Xanh Frăng-xcô đưa ra giao ước : các nước thắng trận được trở lại cai trị các nước đã từng là thuộc địa, còn các nước là thuộc đìa của phe Phát xít thì quân Đồng minh sẽ đến giải giáp và giao quyền tự trị cho nước đó. Để chuẩn bị cho cuộc xâm lược lần thứ hai của mình, Pháp đã tung ra trước dư luận quốc tế : Pháp có quyền quay trở lại Đông Dương. 

2. Đối tượng, mục đích

a) Đối tượng 


+ Toàn thể quốc dân đồng bào .

+ Toàn thế giới. Trước hết là bọn đế quốc (Anh- Pháp- Mỹ), đặc biệt là Pháp, kẻ đang lăm le trở lại xâm lược. Sự khẳng định quyền độc lập, tự do của dân tộc cũng đồng thời là một cuộc đấu tranh chính trị nhằm bác bỏ luận điệu của bọn xâm lược.

b) Mục đích

+ Công bố nền độc lập tự do của dân tộc, khai sinh ra nước Việt Nam mới.

+ Cương quyết bác bỏ luận điệu và âm mưu xâm lược trở lại của các thế lực thực dân đế quốc.

II. Đọc hiểu văn bản

1. Bố cục

Có thể chi làm 2 phần :


a) Phần 1 : từ đầu đến “chứ không phải từ tay Pháp” - Cơ sở pháp lí và cơ sở thực tiễn của tuyên ngôn.

b) Phần 2 : còn lại - Tuyên bố độc lập và quyết tâm bảo vệ nền độc lập.

2. Đọc- hiểu nội dung phần thứ nhất

2.1- Về cơ sở pháp lí mà Tuyên ngôn đưa ra

a) Mở đầu bản tuyên ngôn của nước Việt Nam, Bác lại dẫn lời trong hai bản tuyên ngôn của Mỹ và của Pháp. Nội dung những lời trích dẫn là khẳng định quyền bình đẳng, quyền tự do, quyền sống và quyền mưu cầu hạnh phúc của mỗi cá nhân. Đó là những quyền hiển nhiên, tất yếu và bất khả xâm phạm. Như vậy, cơ sở pháp lí của bản tuyên ngôn là quyền tự do, bình đẳng của con người. Hồ Chí Minh đã đứng trên quan điểm ấy mà đối thoại với bọn đế quốc về quyền dân tộc.

b) Trước hết, cách nói, cách viết của Bác vô cùng khéo léo: khẳng định quyền tự do, độc lập của dân tộc ta bằng chính những lời lẽ của tổ tiên người Mỹ, người Pháp, hai bản tuyên ngôn đã từng làm vẻ vang cho truyền thống tư tưởng, văn hóa của những dân tộc ấy. 

c) Khéo léo mà vẫn rất kiên quyết vì qua đó để nhắc nhở họ đừng phản bội tổ tiên mình, đừng làm vấy bùn lên lá cờ nhân đạo của những cuộc cách mạng vĩ đại của nước Pháp, nước Mỹ nếu nhất định tiến quân xâm lược Việt Nam.

c) Ý nghĩa : Bác đặt ba cuộc cách mạng ngang hàng nhau, ba nền độc lập ngang hàng nhau, ba bản tuyên ngôn ngang hàng nhau. Cách làm này của Bác đã đưa dân tộc ta đường hoàng bước lên vũ đài chính trị thế giới.
Mặt khác, Tuyên ngôn độc lập tuy không trực tiếp dẫn ra, nhưng lại gợi nhớ về một sự tiếp nối niềm tự hào, tư tưởng độc lập dân tộc của cha ông đã được khẳng định từ xa xưa, trong áng thiên cổ hùng văn Bình Ngô đại cáo.

d) Phần suy rộng ra : "Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng. 
Dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do". 

+ Bác đã nâng quyền con người, quyền cá nhân thành quyền dân tộc. 

+ Đây là một đóng góp đầy ý nghĩa đối với tư tưởng giải phóng dân tộc trên thế giới. Một nhà văn hóa nước ngoài đã viết: "Cống hiến nổi tiếng của cụ Hồ Chí Minh là ở chỗ Người đã phát triển quyền lợi của con người thành quyền lợi của dân tộc. Như vậy, tất cả mọi dân tộc đều có quyền quyết định lấy vận mệnh của mình" (Hồ Chủ tịch trong lòng dân thế giới- NXB Sự thật Hà Nội, 1979).

+ Như vậy, có thể xem luận điểm được "suy rộng ra" của Hồ Chí Minh là phát súng lệnh khởi đầu cho bão táp cách mạng ở các nước thuộc địa, báo hiệu sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân trên khắp thế giới vào nửa sau thế kỉ XX.

2.2- Về cơ sở thực tế

a) Hồ Chí Minh đã đưa ra những dẫn chứng thực tế không thể chối cãi để vạch tội theo lối bác bẻ ngụy luận của thực dân Pháp.

+ Thứ nhất, thực dân Pháp kể công "khai hóa", Bác đã lên án chúng trên mọi phương diện (chính trị, kinh tế, văn hóa). Thủ tiêu mọi quyền chính đáng, tắm máu các phong trào yêu nước, thi hành chính sách ngu dân, đầu độc, bần cùng hóa, gây ra nạn đói khủng khiếp hơn hai triệu người chết đói,… Tất cả những việc mang danh “khai hóa” của thực dân Pháp trái hẳn với nhân đạo và chính nghĩa. 

+ Thứ hai, thực dân Pháp kể công "bảo hộ", Bác nêu rõ : chúng không những không bảo hộ được mà "trong vòng 5 năm đã bán nước ta hai lần cho Nhật". Không những thế, khi bị phát xít Nhật đảo chính, chính đoàn thể yêu nước, cách mạng của nhân dân Việt Nam ( Việt minh) đã cứu giúp nhiều người Pháp, bảo vệ cả tính mạng và tài sản của họ. 

+ Thứ ba, thực dân Pháp luôn tuyên bố Đông Dương là thuộc địa của Pháp, Pháp có quyền trở lại Đông Dương. Bác vạch rõ: "Sự thật là từ mùa thu 1940, nước ta đã thành thuộc địa của Nhật chứ không phải là thuộc địa của Pháp nữa. Khi Nhật hàng Đồng minh, nhân dân cả nước ta đã nổi dậy giành chính quyền, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa" là từ tay phát xít Nhật.

Tất cả cách đưa dẫn chứng theo phép liệt kê trên đều lập luận kiểu “gậy ông đập lưng ông”. Từng “gậy” rắn chắc, mạnh mẽ, dứt khoát, không thể chối cãi, không chống đỡ được.

b) Chủ đích là, bác bỏ mọi sự dính líu của Pháp ở Việt Nam. Khẳng định Việt minh, tổ chức yêu nước – cách mạng của Việt Nam là một lực lượng của phe Đồng minh đánh đuổi phát xít Nhật để giải phóng dân tộc, giải phóng đất nước.

3. Đọc- hiểu nội dung phần thứ hai

3.1- Mở đầu phần tuyên ngôn


a) Là 3 câu văn ngắn gọn vừa chuyển tiếp/liên kết (xét về mặt hình thức) phần 1 với phần 2 vừa tổng kết, khẳng định với một ý nghĩa vô cùng sâu sắc. 

b) Câu 1 (Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị) xác nhận sự hết thời của thực dân, phát xít và phong kiến trên đất nước ta. Một câu 3 mệnh đề, mỗi mệnh đề là một kết cấu chủ vị gồm 1, 2 từ, chỉ có 9 chữ mà gói gọn một giai đoạn lịch sử đấu tranh vô cùng quan trọng của dân tộc ta từ cuối trung đại đến hiện đại. Đồng thời làm rõ tình thế hiện tại (Pháp đã bỏ chạy, dân Việt Nam đánh cho Nhật phải hàng, lấy lại đất nước từ tay phát xít Nhật và chính quyền phong kiến đã từ bỏ vương quyền của nó). Vì vậy, một nước Việt Nam độc lập dân tộc, dân chủ nhân dân, theo chnh thể cộng hòa phải ra đời là bước đi tất yếu của lịch sử, không thể ngăn cản.

c) Câu 2 (Dân ta đã đánh đổ các xiềng xích thực dân gần 100 năm nay để gây dựng nên nước Việt Nam độc lập) khẳng định nền độc lập dân tộc.

d) Câu 3 (Dân ta lại đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỉ mà lập nên chế độ dân chủ cộng hòa) khẳng định chính thể mới. 
e) Ba câu văn ngắn gọn, cô đọng, hàm súc mang nhiều lớp nghĩa đã mở đầu cho lời tuyên bố về một nước Việt Nam bước vào kỉ nguyên mới.

Từ sự thật lịch sử này, bản Tuyên ngôn đưa ra Tuyên bố về sự ra đời của nước Việt Nam độc lập, tự do (Chúng tôi, lâm thời chính phủ của nước Việt Nam mới, đại biểu của toàn dân Việt Nam, giữ vững quyền tự do, độc lập ấy). 

3.2- Phần tuyên bố

a) Phần này gồm 2 tuyên bố
 (thoát li hẳn, xoá bỏ hết,... và Nước Việt Nam có quyền,...). Mỗi tuyên bố lại có 2 lời (lời tuyên bố và lời biểu thị quyết tâm thực hiện lời tuyên bố ; khẳng định sự đúng đắn của lời tuyên bố). Kết cấu như thế, kết hợp với giọng văn (thể hiện qua đùng từ, viết câu, tạo nhịp) mạnh mẽ, dứt khoát vừa làm nổi bật các nội dung tuyên bố vừa thể hiện tinh thần kiên định, khí phách hào hùng của một dân tộc đã, đang đứng lên tự quyết định vận mệnh mình. 

b) Tuyên bố đầu tiên là "thoát li hẳn quan hệ thực dân với Pháp, xóa bỏ hết các hiệp ước mà Pháp đã kí về nước Việt Nam, xóa bỏ tất cả mọi đặc quyền của Pháp trên đất nước Việt Nam".

- Trước hết, lời tuyên bố đề cập đến một vấn đề hết sức thiết yếu. Nếu không, không thể tuyên bố về sự độc lập. Đó là tuyên bố không chịu sự lệ thuộc và xoá bỏ mọi đặc quyền của Pháp. 

- Thứ hai, lời tuyên bố vô cùng tinh tế, sâu sắc và chặt chẽ. Xóa bỏ là xóa bỏ các quan hệ thực dân với Pháp, không xóa bỏ quan hệ tốt đẹp, không từ chối quan hệ hữu nghị. Lại viết, “xoá bỏ hết những hiệp ước mà Pháp đã kí về nước Việt Nam”, không phải kí với nước Việt Nam. Kí "về" là kí có tính chất áp đặt, ép buộc, gồm cả những hiệp ước kí với nước ngoài về Việt Nam. Khác hẳn kí "với" là kí trên tinh thần bình đẳng, hợp tác. 

Thứ ba, lời tuyên bố sử dụng phép lặp và một trường từ vựng có tính chất mạnh : "thoát li hẳn", "xóa bỏ hết", "xóa bỏ tất cả" thể hiện lập trường kiên định, thái độ dứt khoát, vấn đề đặt ra không thêt khoan nhượng. Có những hàm ý tinh tế nhưng rõ ràng : “Pháp” là chính phủ Pháp ở chính quốc, thực dân Pháp ở Việt Nam, không phải nhân dân Pháp. Hay luôn luôn viết “nước” Việt Nam, nghĩa là nhấn mạnh tính thống nhất đất nước. Mặc nhiên phủ nhận sự chia cắt nước ta thành 3 kì của thực dân Pháp.

c) Tuyên bố cuối cùng là tuyên bố về quyền tự do, độc lập và sự ra đời của nước Việt Nam tự do độc lập.

Để dến tuyên bố này, tác giả đã dẫn giải ba sự thật không thể chối cãi và một nguyên tắc. Đó là sự thật, dân tộc Việt Nam đã đấu tranh trường kì với thực dân Pháp để có tự do, độc lập ; dân tộc Việt Nam đã đứng về phe Đồng Minh chống phát xít ; Việt Nam đã là nước tự do độc lập. Nguyên tắc đưa ra là nguyên tắc về quyền bình đẳng của các dân tộc. Một nguyên tắc được thế giới trong đó có các nước Đồng minh thừa cơ “đục nước béo cò” (Tàu Tưởng), đang âm mưu giúp thực dân Pháp trở lại xâm lược và cai trị nước ta (Anh, Mĩ) thông qua. Đây chính là cơ sở vững chắc để tuyên bố độc lập. Vì đảm bảo tính pháp lí, đạo lí, thực tế và phù hợp với công ước quốc tế. 

d) Về phương diện diễn đạt, đều là câu khẳng định, thiên về các từ “nóng” (quyết, phải, không thể không, toàn thể, tất cả,...), khi điệp từ ngữ (gan góc, dân tộc,...), khi song hành cú pháp (Một dân tộc đã,... dân tộc đó phải được,...), khi mạnh mẽ, khi mềm mại, uyển chuyển (Chúng tôi tin rằng,...) đã tạo nên âm hưởng hào hùng, đanh thép , trang trọng của một đoản khúc anh hùng ca nhưng vẫn nồng nàn, tha thiết. 

4. Nghệ thuật chính luận trong Tuyên ngôn độc lập

a) Vấn đề trọng đại, nhiều nội dung lớn cần đề cập
, làm sáng tỏ. Phạm vi tác động rộng, đối tượng tiếp nhận, tác động khác nhau, thậm chí trái ngược nhau về địa vị. trình độ, quan điểm, lập trường, thái độ, tình cảm (nhân dân Việt Nam - một bộ phận trí thức, còn lại 90% lao động nghèo, thất học, mù chữ ; Chính phủ và nhân dân các nước) phải viết như thế nào để có sức thuyết phục tất cả ? Với cương vị thay mặt Chính phủ Lâm thời của nước Việt Nam mới trong một bối cảnh xã hội phức tạp, thái độ, tình cảm cần bộc lộ ra sao ? Lại phải trình bày ngắn gọn để mõi một ý tứ, câu chữ găm vào lòng người. 

Đó quả là một bài toán hắc búa. Nhưng Tuyên ngôn Độc lập đã đáp ứng được một cách xuất sắc bằng một nghệ thuật chính luận bậc thầy.

b) Điểm nổi bật đầu tiên là, văn phong của bản Tuyên ngôn đanh thép, sắc sảo mà vô cùng trong sáng, giản dị, súc tích, giàu nghệ thuật. 

Từ ngữ sử dụng chính xác, giản dị, dễ hiểu, gần gũi. Lời văn trong sáng nhưng không làm mất di tính hiện đại, sự sang trọng, vẻ uyển chuyển. Đó là trường hợp không ngại sử dụng những câu dài có cấu trúc phức tạp, các loại câu khẳng định liên tiếp (khẳng định, phủ định đối tượng bằng câu khẳng định, phủ định của phủ định), các câu liệt kê, câu song hành,... phối hợp với sự liên kết câu, đoạn chặt chẽ, mang giai điệu phù hợp, đầy hình ảnh, không ngại các phép tu từ. Tất cả lại thật gãy gọn, khúc chiết. 

c) Hệ thống lập luận của Tuyên ngôn có sự kết hợp chặt chẽ giữa lí lẽ và bằng chứng ; giữa trí tuệ và cảm xúc ; giữa cứng rắn và khôn khéo, mềm mỏng ; giữa cương quyết và thiết tha ; giữa các phép lập luận : chứng minh, giải thích, phân tích, bình luận, bác bẻ ; giữa tính chính trị, tuyên truyền và tính văn chương nghệ thuật. 

Tuyên ngôn độc lập thể hiện một trí tuệ mẫn tiệp, một tầm văn hóa sâu rộng và trên hết là một tình yêu dân, yêu nước nồng nàn.

III- Tổng kết 

1- Nếu xem Nam quốc sơn hà và Đại cáo bình Ngô là 2 lần tuyên bố độc lập, quyết tâm bảo vệ chủ quyền đất nước thì đây là lần thứ 3. Tuyên ngôn độc lập thời hiện đại : chính thức, của chính thể dân chủ cộng hòa, không chỉ về độc lập dân tộc mà còn về quyền con người, truớc toàn thế giới, không phải chỉ với phong kiến Trung Hoa.

2- Một áng văn chính luận xuất sắc. Tác phẩm là tiếng nói của một trí tuệ lớn lao, cũng là của một trái tim nồng nàn yêu nước, thương nòi .

3- Tác phẩm sẽ trường tồn không chỉ vị giá trị lịch sử mà còn vì sự lay động mãi mãi trái tim con người.\\





0 nhận xét:

Post a Comment

 
Toggle Footer