Kiến thức cơ bản về bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc ( Nguyễn Đình Chiểu )
I.Giới thiệu chung
1.Hoàn cảnh sáng tác
- Viết trong buổi nhân dân tổ chức truy điệu các nông dân nghĩa sĩđã hi sinh trong trận tấn công đồn Cần Giuộc ngày 16 12 1861.
- Tác phẩm ra đời vào cuối 1861, đầu 1862. Đây là thời điểm cả nước, đặc biệt là nhân dân miền Nam đang sôi sục đứng lên chống lại thực dân Pháp. Ngày 16 12 1861 xảy ra một trận đánh đồn Cần Giuộc, nhiều nghĩa sĩ nông dân đã tập kích, phá đồn, tiêu diệt được nhiều giặc Pháp và tay sai, trong trận này, nghĩa binh chết gần 20 người. Cảm kích trước lòng dũng cảm của nghĩa sĩ, tuần phủ Gia Định giao cho cụ Đồ Chiểu viết bài văn tế đọc tại buổi lễ truy điệu các nghĩa sĩ.
Bài văn tế đã khích lệ tinh thần yêu nước, lòng căm thù giặc và ý chí chiến đấu và bảo vệ tổ quốc
2. Thể loại: Văn tế.
3 .Bố cục: 4 đoạn
a. Lung khởi ( câu 1-2): Khái quát bối cảnh bão táp của thời đại và khẳng định ý nghĩa cái chết bất tử của người nông dân-nghĩa sĩ.
b. Thích thực ( từ câu 3 15 ): Tái hiện chân thực hình ảnh người nông dân nghĩa sĩ, từ cuộc đời lao động vất vả, tủi cực đến giây phút vươn mình trở thành dũng sĩ đánh giặc và lập chiến công.
c. Ai vãn ( 16 28 ): Bày tỏ lòng tiếc thương, sự cảm phục của tác giả và nhân dân đối với người nghĩa sĩ
d. Kết ( 2 câu cuối ): Ca ngợi linh hồn bất tử của các nghĩa sĩ.
II. Nội dung
1.Phần 1: Lung khởi
- Mở đầu: Hỡi ôi! Tiếng than lay động lòng người.
- Nt: đối: Súng giặc đất rền Lòng dân trời tỏ .Âm vang của tiếng súng gợi lên cơn tao loạn của đất nước một thời, làm nổi bật lên một vấn đề trung tâm của thời đại: sự đối lập giữa súng giặc và lòng dân, súng giặc thì rền vang mặt đất, lòng dân thì rực sáng cả bầu trời.
Phác hoạ lại một thời đại đau thương nhưng anh hùng. Thực dân Pháp xâm lược, hung bạo với vũ khí tối tân, ta chống lại giặc chỉ có tấm lòng, chiến đấu vì chính nghĩa.
Mười năm công tiếng vang như mõ ý thức rõ con đường đánh Tây là hoàn toàn đúng, vì nhân nghĩa, là hành động cao cả đáng biểu dương.
Rõ ràng người nghĩa binh - nông dân đã xác định một quan niệm sống chết cao đẹp: chết vinh hơn sống nhục. NĐC đã thể hiện rõ một thời đại hỗn tạp, một cuộc chiến đấu khỗ nhục nhưng vĩ đại. Hai tư cách xuất hiện trong một đoạn văn nói lên sự chuyển biến của nông dân khi giặc tới, sự chuyển biến này như thánh gióng, rất nhanh, dứt khoát.
Tình yêu thương đối với người nông dân và cảm xúc to lớn của Nguyễn Đình Chiểu.
2.Phần 2 ( thích thực )
Cuộc đời:
- Cui cút làm ăn làm ăn một cách âm thầm, lặng lẽ tội nghiệp
- Toan lo nghèo khó Quanh năm lo làm ăn vất vả mà quanh năm vẫn cứ đói rách
- Họ biết: ruộng trâu, làng bộ, cày cấy, cuốc, bừa
- Không hề biết: cung ngựa, trường nhung, tập khiêng, tập súng, tập mác, tập cờ, Họ là những người nông dân 100%, mà là nông dân Nam Bộ giữa thể kỉ XIX - nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu.
=> Với những từ ngữ gợi tả, biệt pháp liệt kê, tác giả cho thấy cuộc đời của nghĩa sĩ là những người nông dân nghèo khổ, lam lũ, chất phác, cần cù, gắn bó với làng quê thanh bình, chưa hề biết đến chiến trận binh đao.
Vì là nông dân thuần tuý, nên họ chỉ quen những gì và chưa hề biết đến những gì?
NĐC nói lên những điều rất bình thường của người nông dân, nhưng nó là bước đệm cho lời khen của tác giả, họ không biết gì đến giặc mà phải đánh giặc, họ làm những điều không thuộc về họ. Họ có lòng yêu nước sâu sắc.
Khi giặc Pháp đánh chiếm quê hương, họ trở thành người nghĩa sĩ anh dũng đánh Tây.
-Ban đầu: Họ sợ sệt, lo lắng, căng thẳng và cảm thấy thất vọng khi bị bỏ rơi tiếng phong hạc mưa
-Căm ghét: Mùi tinh chiên như nhà nông ghét cỏ kiểu căm ghét rất nông dân, tự nhiên, cụ thể.
- Căm thù cao độ: muốn tới ăn gan, muốn ra cắn cổ 3 đt mạnh + 1 danh từ: Sự căm thù lên đến tột đỉnh, muốn hành động một cách dứt khoát.
-Nhận thức: Một mối xa thư há để ai chém rắn đuổi hươu; hai vầng nhật nguyệt đâu dung lũ treo dê bán chó vạch trần bộ mặt của Pháp xâm lược VN mà bảo là khai hoá => nhận thức, ý thức trách nhiệm đối với sự nghiệp cứu nước.
Càng căm thù, người nghĩa binh nông dân càng đau đớn, xót xa khi nhìn thấy cảnh tổ quốc giang sơn hùng vĩ bị kẻ thù đoạt mất chgủ quyền, và họ quyêt không dung tha cho bọn chúng.
-Họ hành động tự nguyện: Nào đợi ai đòi ai bắt chẳng thèm trốn ngược, trốn xuôi sẵn sàng chiến đấu vượt qua mọi khó khăn gian khổ.
=> Đây là sự chuyển hoá phi thường từ người nông dân hiền lành chất phác, trở thành người có ý thức trách nhiệm và tự nguyện vì đại nghĩa mà đứng lên đánh giặc cứu nước.
Người nông dân trở thành chiến sĩ với sự hăm hở, tự tin với sức mạnh truyền thống của dân tộc, với lòng yêu nước mãnh liệt.
Trong trận tập kích công đồn, họ là những dũng sĩ
-Khẳng định: chẳng phải quân cơ quân vệ ; chẳng qua là dân ấp dân lân, mến nghĩa làm quân chiêu mộ Họ chỉ là con người thật thà, chỉ có một tấm lòng mến nghĩa mà đánh giặc.
-Trang bị: chưa tập rèn võ nghệ, chưa bày bố binh thư, manh áo vải, ngọn tầm vong, rơm con cúi, vũ khí quá thô sơ, chỉ là những đồ dùng sinh hoạt hàng ngày của họ.
-Khi ra trận:
+ đốt xong nhà dạy đạo kia, chém rớt đầu quan hai nọ
+ Đạp rào lướt tới , xô cửa xông vào liều mình như chẳng có
+ Kẻ đâm ngang, người chém ngược ; bọn hè trước, lũ ó sau .
- Đtừ hành động với mật độ cao: đánh, đốt, chém, gióng, đạp, lướt, xô, xông,
- Động từ chỉ hành động mạnh, dứt khoát: Đốt xong, chém rớt,
- Cách dùng từ chéo: đâm ngang, chém ngược, hè trước, ó sau
- Ngắt nhịp ngắn gọn, giọng điệu khẩn trương,
Họ lấy gan vàng đọ với đạn nhỏ, đạn to, tàu thiếc, tàu đồng ( vũ khí tối tân, hiện đại)Họ hy sinh nhưng vẫn là những anh hùng bất tử.
Gan dạ, coi thường sự hiểm nguy, xông vào đồn giặc với tất cả sức mạnh của lòng yêu nước, căm thù giặc, kẻ thù phải khiếp sợ.
=> Với việc sử dụng các động từ mạnh, từ chéo, ngắt nhịp câu ngắn gọn, giọng điệu khẩn trương, sôi động , tác giả đã dựng lên bức tranh công đồn chân thực hào hùng, sinh động, làm sống dậy khí thế xông trận ồ ạt như vũ bão, một khí thế hiếm thấy trong lịch sử văn học và lịch sử dân tộc.
Đây là cuộc chiến không cân sức, vì vậy, dù họ có thất bại, họ vẫn là những anh hùng bất tử.
Ý nghĩa của trận đánh ấy không chỉ là tạo được chiến thắng oanh liệt mà còn ở chỗ qua trận đánh, người nghĩa quân đã khẳng định thêm, làm sáng tỏ chân lí của lịch sử:
+ Chân lí về lòng yêu nước, vai trò tự nguyện, tự giác của người dân trong chiến đấu từ xưa đến nay.
+ Chân lí về khả năng chiến thắng của ý chí con người.
Lời văn có tính chất hồi tưởng, đặc biệt với cảm hứng ngợi ca anh hùng, hình ảnh người nông dân nghĩa quân Cần Giuộc hiện lên như một tượng đài nghệ thuật sừng sững, rực rỡ hiếm thấy. Lần đầu tiên người nông dân VN bước vào văn học với tư thế đưòng hoàng, đĩnh đạc mang tầm vóc và vẻ đẹp có thực của mình.
3.Phần 3 và phần 4 ( ai vãn và kết )
a.Nỗi xót thương đối với người nghĩa sĩ.
- Nỗi tiếc hận của người phải hi sinh khi sự nghiệp còn dang dở, chí nguyện chưa thành ( câu 16, 24 )
- Nỗi xót xa của những gia đình mất người thân, tổn thất không thể bù đắp đối với những người mẹ già, vợ trẻ ( câu 25 )
- Nỗi căm hờn đã gây nên nghịch cảnh éo le ( câu 21 ), hoà chung với tiếng khóc uất ức nghẹn ngào, trước tình cảnh đau thưong của đất nước, của dân tộc ( câu 27)
- Nỗi đau sâu nặng không chỉ ở trong lòng ngưòi mà còn bao trùm khắp cỏ cây, sông núi: sông Cần Giuộc, chợ Trường Bình, tất cả đều nhuốm màu tang tóc, bi thương.
Tiếng khóc không chỉ thể hiện tình cảm riêng tư mà tác giả đã thay mặt nhân dân cả nước khóc thương và biểu dương công trạng của người nghĩa sĩ. Tiếng khóc không chỉ hướng về cái chết mà con2 hưóng về cuộc sống đau thương, khổ nhục của cả dân tộc trước làn sóng xâm lăng của thực dân, nó không chỉ gợi nỗi đau mà còn khích lệ lòng căm thù giặc và ý chí tiếp nối sự nghiệp dở dang của người nghĩa sĩ.
b.Niềm cảm phục trước cái chết vẻ vang của người nghĩa sĩ Cần Giuộc.
Niềm cảm phục và tự hào đối với những người dân thường đã dám đứng lên bảo vệ từng tấc đất ngọn rau, bát cơm manh áo của mình chống lại kẻ thù hung hãn ( câu 19,20), đã lấy cái chết để làm rạng ngời một chân lí cao đẹp của thời đại: Chết vinh còn hơn sống nhục ( câu 22, 23 )
c.Biểu dương công trạng của người nông dân- nghĩa sĩ, đời đời được nhân dân ngưỡng mộ, tổ quốc ghi công ( câu 26, 28 )
4.Nghệ thuật
- Cảm xúc chân thành, sâu nặng, mãnh liệt ( câu 3, 25 ); giọng văn bi tráng, thống thiết ( câu 22, 23, 24); hình ảnh sống động ( câu 13, 14, 15)
- Ngôn ngữ giản dị, dân dã được chọn lọc tinh tế, có sức biểu cảm lớn, giá trị thẩm mĩ cao( cui cút, tấc đất ngọn rau, bát cơm manh áo, ), sử dụng nhiều biện pháp tu từ
- Giọng điệu thay đổi theo dòng cảm xúc.
0 nhận xét:
Post a Comment