Địa chỉ mới của blog:van-hay.blogspot.com
Breaking News
Loading...
Monday, January 12, 2015

Đề thi về Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh và Tuyên ngôn độc lập

2:21 AM
Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh

Đề 1




Hãy nêu những nét chính về sự nghiệp văn học của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh



Bài tham khảo

Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh (1890 – 1969) sinh ra trong một gia đình nhà Nho yêu nước ở làng Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Người là nhà cách mạng vĩ đại, anh hùng dân tộc, đồng thời cũng là nhà thơ, nhà văn, nhà văn hoá lớn.

Tuy không hề có ý định xây dựng cho mình một sự nghiệp văn chương(Ngâm thơ ta vốn không ham) nhưng Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã nhận ra rằng văn chương là một loại vũ khí sắc bén đầy lợi hại để đấu tranh cách mạng và cũng là phương tiện rất hiệu nghiệm để động viên chiến sĩ, đồng bào: “Văn hoá nghệ thuật cũng là một mặt trận, anh chị em là chiến sĩ trên mặt trận ấy”, “Nay ở trong thơ nên có thép, nhà thơ cũng phải biết xung phong”. Chính vì vậy, tất cả sáng tác văn học của Bác Hồ đều trở thành một bộ phận trong sự nghiệp đấu tranh cho từng giai đoạn cách mạng ở nước ta. Do đó, phong cách sáng tác của Người rất đa dạng và sự nghiệp văn học của Người cũng rất lớn lao về tầm vóc.
Trong sự nghiệp văn học của Nguyễn Ái Quốc, văn xuôi chiếm một khối lượng lớn nhất. Trước tiên là các tác phẩm chính luận. Bác Hồ viết nhiều lời kêu gọi, báo cáo chính trị, tài liệu lí luận, tuyên truyền, huấn luyện,…Trong số này, Tuyên ngôn độc lập(1945), Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến(1946), Di chúc là những áng văn bất hủ đã đi vào lục sử và sẽ trường tồn cùng đất nước ta.
Ngoài ra, Bác Hồ còn có văn xuôi nghệ thuật là những truyện ngắn, truyện vui, kịch, truyện viễn tưởng, tiểu phẩm châm biếm…hoạt động ở Pari: Truyện và kí gồm một loại truyện ngắn, truyện kể nổi bật hơn cả là Pari, Lời than vãn của bà Trưng Trắc, Những trò lố hay là Varen và Phan Bội Châu, Vi hành, kịch Con rồng tre, Bản án chế độ thực dân Pháp vừa là văn chính luận vừa là văn xuôi nghệ thuật đặc sắc.
Ngoài văn xuôi, Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh còn để lại một di sản thơ ca phong phú bao gồm thơ ca tuyên truyền cách mạng và thơ ca viết với cảm hứng trữ tình. Loại thơ ca tuyên truyền cách mạng, Người sáng tác từ rất sớm, khá đều đặn và rất đa dạng về hình thức thể loại. Nổi bật hơn cả là thơ ca tuyên truyền kêu gọi các trận Việt minh và thơ ca viết sau Cách mạng tháng Tám tặng thanh niên, thiếu nhi, động viên mọi người hăng hái tham gia kháng chiến. Trong mảng thơ ca này, những bài thơi chúc Tết hàng năm của Bác Hồ có sức mạnh truyền cảm vô cùng lớn lao và một ý nghĩ thật đặc biệt.
Về loại thơ viết cảm hứng trữ tình của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh, đặc sắc nhất là tập Nhật ký trong tù được sáng tác khi Người bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam ở Quảng Tây hơn một năm trời. Tập thơ thể hiện một tâm hồn cao đẹp tuyệt vời và một phong cách thơ độc đáo. Ngoài ra, còn các bài thơ trữ tình được sáng tác trong thời gian Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh ở Pắc Pó (1941 – 1945) và trong thời kì Người lãnh đạo cuộc kháng chiến trống Pháp ở Việt Bắc. Đó cũng là những áng thơ đặc sắc muôn đời sau còn ghi nhớ.
Tóm lại sự nghiệp văn học của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh gắn liền với sự nghiệp cách mạng của Người, của dân tộc. Di sản văn học độc đáo, phong phú ấy có những giá trị to lớn về nhiều mặt không những tác động mãnh liệt đến tư tưởng tình cảm của mỗi con người Việt Nam mà còn có vị trí quan trọng trong lịch sử văn học nước nhà.
ST​



****************************************************************


Đề 2: Trong phần mở đầu bản Tuyên ngôn độc lập, chủ tích Hồ Chí Minh đã trích dẫn những bản tuyên ngôn nào? Việc trích dẫn đó có ý nghĩa gì?
BÀI GIẢI GỢI Ý
Thí sinh có thể trình bày theo nhiều cách, nhưng cần nêu được những nội dung cơ bản sau : 


a. Trong phần mở đầu bản Tuyên ngôn Độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trích dẫn hai bản Tuyên ngôn : 


- Tuyên ngôn Độc lập của Mỹ năm 1776.


- Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp năm 1791.


b. Ý nghĩa của việc trích dẫn: 


- Tác giả tạo một cơ sở pháp lý vững chắc cho bản tuyên ngôn để khẳng định quyền độc lập tự do của dân tộc Việt Nam là “một lẽ phải không ai chối cãi được”, đồng thời tạo tiền đề cho lập luận nêu ở phần sau.


- Tác giả thể hiện thái độ trân trọng tinh hoa văn hóa nhân loại, đề cao truyền thống bình đẳng, nhân đạo, tư tưởng dân chủ tiến bộ của hai nước Pháp và Mỹ để tranh thủ sự ủng hộ của nhân dân thế giới.


- Tác giả muốn từ vấn đề nhân quyền để “suy rộng ra” và phát triển thành quyền dân tộc. Đây là đóng góp lớn về tư tưởng của Hồ Chí Minh đối với phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới. 


- Tác giả cũng chỉ ra cho thực dân Pháp thấy rõ: nếu chúng âm mưu tái chiếm nước ta là xúc phạm đến nguyên lý về quyền độc lập tự do mà chính tổ tiên của chúng đã nêu ra trước kia. Đây là lối tranh luận “lấy gậy ông đập lưng ông” thể hiện thái độ vừa kiên quyết vừa khôn khéo của tác giả. Mặt khác, khi đặt ba bản tuyên ngôn ngang nhau, tác giả còn bộc lộ sâu sắc niềm tự hào dân tộc.


ST​

********************************************************


Đề 3. Nêu giá trị lịch sử và giá trị nghệ thuật của Tuyên ngôn độc lập 

hãy : Phân tích và chứng minh rằng “Tuyên ngôn độc lập” không chỉ là một văn kiện lịch sử vô giá mà còn là một tác phẩm văn học vô giá.


1. Hồ Chí Minh (1890 – 1969) là một tác gia lớn của nền văn học dân tộc Việt Nam. Người viết thành công trên nhiều thể loại văn chính luận, truyện ký, thơ ca và ở thể loại nào cũng có những tác phẩm xuất sắc mẫu mực. Riêng ở thể loại văn chính luận, Hồ Chí Minh đã chứng tỏ mình là một cây bút xuất sắc mẫu mực mà dẫn chứng hùng hồn là tác phẩm “Tuyên ngôn độc lập” 1945. “Tuyên ngôn độc lập” là một bản tuyên bố lịch sử được chủ tịch Hồ Chí Minh đọc tại vườn hoa Ba Đình vào ngày 2 – 9 – 1945. Bản “Tuyên ngôn độc lập” vừa tuyên bố nền độc lập của dân tộc Việt Nam vừa bác bỏ luận điệu xâm lược của kẻ thù. “Tuyên ngôn độc lập” là một án văn chính luận vừa có giá trị pháp lí, giá trị lịch sử, giá trị nhân văn và giá trị nghệ thuật cao. “Tuyên ngôn độc lập” không chỉ là một văn kiện lịch sử vô giá mà còn là một tác phẩm văn học vô giá.


2 .a. Một văn bản được gọi là văn kiện lịch sử khi nó ra đời trong một hoàn cảnh lịch sử trọng đại, khi văn kiện đó có nội dung liên quan đến những sự kiện lịch sử của dân tộc, đánh dấu một giai đoạn một bước ngoặc lịch sử của dân tộc. Hiểu theo nghĩa như vây ta thấy “Tuyên ngôn độc lập” là một văn kiện lịch sử vì văn kiện này xuất hiện sau khi cách mạng tháng Tám thành công, đánh dấu một giai đoạn mới của nước Việt Nam, khai sinh nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, tuyên bố với thế giới về quyền độc lập tự chủ và quyết tâm bảo vệ đến cùng nền độc lập dân tộc của nhân dân Việt Nam. Khi đã là một văn kiện đòi hỏi phải có kết cấu rõ ràng, có mục đích nội dung và kết luận tuyên bố. “Tuyên ngôn độc lập” được kết cấu hết sức chặt chẽ.


Cơ sở lí luận của việc ra đời của nước Việt Nam là ở đây, chủ tịch Hồ Chí Minh đã trích lại, diễn giải mở rộng những chân lí bất hủ của nhân loại được ghi trong tuyên ngôn độc lập của Mỹ, tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Pháp, trong đó nhấn mạnh mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng, quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc. Trên cơ sở ấy, Bác nhấn mạnh và suy rộng ra mọi dân tộc đều có quyền tự do bình đẳng. Cơ sở lí luận đó đã là căn cứ để chúng ta tuyên bố về nền độc lập của mình, sự ra đời của nước Việt Nam là phù hợp với đạo lí quốc tế và chắc chắn sẽ được nhân loại thừa nhận. Thực dân Pháp với chiêu bài khai hoá bảo hộ nhưng trong thực tế chúng không hề bảo hộ mà là đàn áp cách mạng Việt Nam, làm cho kinh tế xã hội đời sống của chúng ta suy sụp, vơ vét tài sản của nhân dân ta gây ra nạn đói 1945. Mặc khác trong vòng 5 năm chúng bán nước ta hai lần cho Nhật vì vậy chúng ta có quyền thoát li khỏi Pháp, Pháp không có quyền gì ở Việt Nam và chúng ta có quyền tuyên bố độc lập. Nhân dân Việt Nam đã đoàn kết cùng nhau đứng dậy đấu trang kháng chiến và giành lại đất nước từ phát xít Nhật cho nên chúng ta có quyền làm chủ đất nước mình. Các nước trong phe đồng minh đã công nhận độc lập các nước trong phe đồng minh, vì vậy không thể không công nhận độc lập của Việt Nam đã từng đứng về phe đồng minh chống phát xít.


Tất cả những cơ sở lí luận và thực tế ở trên cho thấy sự xuất hiện của nước Việt Nam là một điều tất yếu phù hợp với đạo lí quốc tế và nguyện vọng của nhân dân Việt Nam. Kết luận của bản tuyên ngôn, sự ra đời của nước Việt Nam là tất yếu và thay mặt nhân dân Việt Nam chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên bố về sự ra đời của nước Việt Nam cùng quyết tâm bảo vệ nền độc lập ấy.


b. Tác phẩm được gọi là tác phẩm văn học khi tác phẩm ấy sử dụng ngôn ngữ văn học như chọn lọc giàu hình ảnh giàu cảm xúc và xây dựng được những hình tượng nghệ thuật có tính chất điển hình. Hiểu theo nghĩa như vậy “Tuyên ngôn độc lập” là một tác phẩm văn học bởi lẽ trong đó tác giả đã sử dụng hệ thống ngôn ngữ giàu hình ảnh, cô đọng, xúc tích và tạo nên bức chân dung về người cộng sản Hồ Chí Minh đại nhân, đại dũng, đại trí.


Trong bản tuyên ngôn xuyên suốt là những luận điểm chính trị nhưng người ta vẫn nhận ra tình cảm nhân ái của Bác. Đó là Người xúc động đau đớn khi nhắc đến nỗi đau của nhân dân, nhắc đến hai triệu người chết đói 1945, tới hình ảnh các cuộc khởi nghĩa của chúng ta bị dìm trong biển máu, Người cũng xúc động khi sử dụng những từ như “nhân dân ta”, “đồng bào ta”, “các nhà tư sản của ta”. Đặc biệt là giữa chừng bản tuyên ngôn Người dừng lại rồi hỏi “Tôi nói đồng bào nghe rõ không?” đó là bằng chứng đại nhân.


Trong bản tuyên ngôn Người cực lực lên án nhiều tội ác của bọn thực dân, phát xít đối với các dân tộc trên tất cả các mặt kinh tế văn hoá xã hội, Người khẳng định rằng sự ra đời của nước Việt Nam là tất yếu, thay mặt nhân dân Việt Nam Người khẳng định quyết tâm bảo vệ đến cùng nền độc lập dân tộc. Phẩm chất ấy của Người cũng là dũng khí của dân tộc Việt Nam.


Trong tuyên ngôn Người đã chọn lọc và trích dẫn hai bản tuyên ngôn nổi tiếng của thế giới là tuyên ngôn độc lập của Mỹ và tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Pháp. Từ nội dung hạn hẹp của bản tuyên ngôn Người đã phát triển rộng thành ý nghĩa rộng lớn hơn. Chỉ có thể là một người có kiến thức uyên bác mới có cách lập luận bố cục chặt chẽ, có đủ lí luận và thực tế như bản tuyên ngôn. Đặc biệt là sự hiểu biết và thâm thuý đã khiến Bác sử dụng có hiểu quả nghệ thuật “gậy ông đập lưng ông”, khi trích lại tuyên ngôn của Pháp và Mỹ muốn ngầm cảnh báo rằng nếu Pháp và Mỹ xâm lược Việt Nam chúng đã đi ngược lại những điều được cả thế giới công nhận đồng thời chúng đã tự chà đạp lên chính lời dạy của tổ tiên chúng.


Cách sử dụng từ ngữ chọn lọc giàu hình ảnh, trong tuyên ngôn người ta thấy khi quy nạp vấn đề Bác thường sử dụng những cụm từ như “sự thật là”, suy rônggj ra là”, khi cần khái quát Bác thường sử dụng những từ giàu hình ảnh như “tắm các cuộc khởi nghĩa trong biển máu”, “làm cho các nhà tư sản của ta không ngốc đầu dậy”. Trong bản tuyên ngôn từ ngữ được Người sử dụng hết sức cô đọng, có khi chỉ cần câu văn gồm chín chữ nhưng có thể bao quát cả trăm năm lịch sử, những kiện lớn của dân tộc, nói được niềm tự hào dân tộc như “Pháp chạy Nhật hàng vua Bảo Đại thoái vị”.


3. Nếu coi bài thơ “Thần” của Lý Thường Kiệt như là bản tuyên ngôn đầu tiên thì từ đó đến nay để có bản tuyên ngôn này dân tộc Việt Nam đổ bao xương máu mới có được. Đây là bản tuyên ngôn được viết bằng máu và được tạo nên bằng khí phách của dân tộc. .


ST​


************************************************************************************************************************




Đề 4. Những nét chính trong quan điểm sáng tác văn học của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh 

HƯỚNG DẪN


I. Mở bài 


Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh không nhận mình là nhà văn, nhà thơ, mà chỉ là người bạn của văn nghệ, người yêu văn nghệ. Nhưng rồi chính hoàn cảnh thôi thúc, nhiệm vụ cách mạng yêu cầu, môi trường xã hội và thiên nhiên gợi cảm, cộng với tài năng nghệ thuật và tâm hồn nghệ sĩ chan chứa cảm xúc, Người đã sáng tác nhiều tác phẩm có giá trị. Hồ Chí Minh am hiểu sâu sắc quy luật và đặc trưng của hoạt động văn nghệ, từ phương diện tư tưởng chính trị đến nghệ thuật biểu hiện.


II. Thân bài 


1. Hồ Chí Minh xem văn nghệ là hoạt động tinh thần phong phú và phục vụ có hiệu quả cho sự nghiệp Cách mạng; nhà văn cũng phải ở giữa cuộc đời, góp phần vào nhiệm vụ đấu tranh và phát triển xã hội: “Thơ xưa yêu cảnh thiên nhiên đẹp …biết xung phong”. Chất “thép” ở đây chính là xu hướng cách mạng và tiến bộ về tư tưởng, là cảm hứng đấu tranh xã hội tích cực của thi ca. “Không phải cứ nói chuyện thép, lên giọng thép, mới có tinh thần thép”( Hoài Thanh). Chất “thép” còn là bản lĩnh cứng cỏi của người cầm bút. Đó là sự tiếp tục quan điểm thơ “chuyên chú ở con người” như Nguyễn Văn Siêu đã nói, tinh thần “Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà” của Nguyễn Đình Chiểu và được nâng cao trong thời đại Cách mạng vô sản. Sau này, trong những năm kháng chiến chống Thực dân Pháp, qua Thư gửi các hoạ sĩ nhân dịp triển lãm hội họa 1951, Người lại khẳng định: “Văn hoá nghệ thuật cũng là một mặt trận, anh chị em là chiến sĩ trên mặt trận ấy”. 


2. Hồ Chí Minh đặc biệt chú ý đến đối tượng thưởng thức. Văn chương trong thời đại Cách mạng phải coi quảng đại quần chúng là đối tượng phục vụ. Người nêu kinh nghiệm chung cho hoạt động báo chí và văn chương: “Viết cho ai?”, “Viết để làm gì?”, “Viết cái gì?” và “Cách viết thế nào?”. Người chú ý đến quan hệ giữa phổ cập và nâng cao trong văn nghệ. Phổ cập không có nghĩa là hạ thấp phẩm chất của văn chương, mà phải tiếp tục nâng cao phẩm chất ấy, qua đó nâng dần trình độ thưởng thức nghệ thuật, trình độ thẩm mĩ của nhân dân. Các khía cạnh trên liên quan đến nhau trong ý thức và trách nhiệm của người cầm bút.


3. Hồ Chí Minh luôn quan niệm tác phẩm văn chương phải có tính chân thật. Người phê phán những tác phẩm “chất mơ mộng nhiều quá, mà cái chất thật của sự sinh hoạt rất ít”. Người yêu cầu văn nghệ sĩ phải “miêu tả cho hay, cho chân thật, cho hùng hồn” những đề tài phong phú của hiện thực cách mạng, phải chú ý nêu gương “người tốt, việc tốt”, uốn nắn và phê phán cái xấu. Tính chân thật vốn là cái gốc của văn chương xưa nay. 


4. Hồ Chí Minh đòi hỏi nhà văn phải chú ý đến hình thức biểu hiện, tránh lối viết cầu kì, xa lạ, nặng nề. Hình thức của tác phẩm phải trong sáng, hấp dẫn, ngôn từ phải chọn lọc. Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến việc giữ gìn sự trong sáng của Tiếng Việt. Theo Người, tác phẩm văn chương phải thể hiện được tinh thần của dân tộc, của nhân dân và được nhân dân ưa thích.


III. Kết bài: 


Hồ Chí Minh đã để lại một hệ thống quan điểm sáng tác sâu sắc, tiến bộ, có giá trị lớn lao đối với việc phát triển nền văn học Cách mạng, và có ý nghĩa lâu dài. Những quan điểm sáng tác ấy được Hồ Chí Minh đúc kết, chắt lọc từ chính quá trình cầm bút, từ những hiểu biết sâu sắc, uyên bác về văn học, và được Người thực thi một cách bền bỉ, thành công trong sự nghiệp sáng tác của mình. .


ST​




*******************************************


Đề 5. Trình bày nét cơ bản về quan điểm sáng tác và phong cách nghệ thuật của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh

Hướng dẫn giải: 

a. Quan điểm sáng tác (tham khảo đề 4 bên trên) 

+ Văn học là một thứ vũ khí lợi hại phụng sự cách mạng, nhà văn là người chiến sĩ xung phong trên mặt trận văn hoá tư tưởng (“Nay ở trong thơ nên có thép/ Nhà thơ cũng phải biết xung phong, “ Văn hoá nghệ thuật cũng là một mặt trận. Anh chị em là chiến sĩ trên mặt trận ấy.”…)

+ Coi trọng tính chân thật và tính dân tộc:

- Tính chân thật: cảm xúc chân thật, phản ánh hiện thực xác thực.

- Tính dân tộc: nội dung hướng vào đời sống cách mạng toàn dân tộc, hình thức ngôn ngữ trong sáng, phát huy “cốt cách dân tộc”, đồng thời đề cao sự sáng tạo.

+ Sáng tác xuất phát từ mục đích, đối tượng tiếp nhận để quyết định nội dung và hình thức tác phẩm. Bác luôn đặt 4 câu hỏi: Viết cho ai (Đối tượng)? Viết đề làm gì (Mục đích)? Viết cái gì (Nộidung)? Viết như thế nào (Hình thức)?

- Tóm lại:

+ Quan điểm sáng tác được thực thi, thể hiện nhuần nhuyễn, linh hoạt trong tất cả các tác phẩm của Người.

+ Hệ thống quan điểm nghệ thuật đúng đắn, có giá trị, thể hiện tầm vóc tủ tưởng của một nhà văn lớn.

b. Phong cách nghệ thuật 

Nhận định chung về phong cách nghệ thuật Hồ Chí Minh:

- Độc đáo, đa dạng

- Bắt nguồn từ:

• Truyền thống gia đình, hoàn cảnh sống, quá trình hoạt động cách mạng, chịu ảnh hưởng và chủ động tiếp thu tinh hoa văn hoá thế giới.

• Quan điểm sáng tác.

+ Văn chính luận: 

- Cơ sở: khát vọng giải phóng dân tộc khỏi ách nô lệ.

- Mục đích: đấu tranh chính trị, tiến công trực diện kẻ thù, giác ngộ quần chúng, thể hiện những nhiệm vụ cách mạng của dân tộc qua những chặng đường lịch sử.

- Phong cách: ngắn gọn, tư duy sắc sảo, lập luận chặt chẽ, lí lẽ đanh thép, bằng chứng thuyết phục, giàu tính luận chiến và đa dạng về bút pháp.

- Tác phẩm tiêu biểu: 

• Bản án chế độ thực dân Pháp (1925) tố cáo đanh thép tội ác của thực dân Pháp ở thuộc địa, lay động người đọc bởi tính chân thực của các sự việc; tính chân xác của các dẫn chứng; chất sắc sảo, trí tuệ của nghệ thuật châm biếm, đả kích; tính mãnh liệt của tình cảm.

• Tuyên ngôn độc lập (1945): công bố với toàn thể dân tộc và thế giới sự ra đời của nước Việt Nam độc lập; bố cục ngắn gọn, súc tích; lập luận chặt chẽ; lí lẽ đanh thép; bằng chứng xác thực; ngôn ngữ hùng hồn, giàu tính biểu cảm; thể hiện những tình cảm cao đẹp của Bác với dân tộc, nhân dân, nhân loại…

• Các tác phẩm khác: Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến (1946), Không có gì quí hơn độc lập tự do (1966)…

+ Truyện và kí:

- Mục đích: 

• Vạch trần bộ mặt tàn ác, xảo trá, bịp bợm của chính quyền thực dân, châm biếm sâu cay vua quan phong kiến hèn nhát liếm giầy xâm lược.

• Lòng yêu nước nồng nàn và tinh thần tự hào về truyền thống anh dũng bất khuất của dân tộc.

- Phong cách: Chất trí tuệ và tính hiện đại trong nghệ thuật trào phúng vùa sắc bén thâm thuý của phương Đông vừa hài hước hóm hỉnh của phương Tây.

- Tác phẩm: Lời than vãn của bà Trưng Trắc (1922), Vi hành (1923), Những trog lố hay là Varen và Phan Bội Châu (1925)…

+ Thơ ca: thể hiện sâu sắc nhất phong cách đa dạng độc đáo của Hồ Chí Minh.

- Nhật kí trong tù:

• Mục đích: sáng tác trong thời gian bị cầm tù trong nhà giam Tưởng Giới Thạch từ mùa thu 1942 – mùa thu 1943 > “ngày dài ngâm nguội cho khuây”.

• Nội dung: ghi chép chân thực, chi tiết những điều mắt thấy tai nghe trong nhà tù và trên đường đi đày; bức chân dung tự hoạ về con người tinh thần Hồ Chí Minh (nghị lực phi thường; tâm hồn khao khát hướng về Tổ quốc; vừa nhạy cảm trước vẻ đẹp thiên nhiên, dễ xúc đông trước nỗi đau con ngươi vừa tinh tường phát hiện những mâu thuẫn của xã hội mục nát để tạo tiếng cười đầy chất trí tuệ…)

- Sáng tác ở Việt Bắc (1941- 1945)

Mục đích: tuyên truyền và thể hiện những tâm sự “nỗi nước nhà” của vị lãnh tụ ưu nước ái dân.

- Phong cách 

• Thơ tuyên truyền: ngôn ngữ giản dị, mộc mạc, dễ thuộc, dễ nhớ

• Thơ nghệ thuật: viết theo hình thức cổ thi hàm súc, có sự kết hợp hài hoà giữa màu sắc cổ điển và tinh thần hiện đại, chất thép và chất tình.




*****************************************************




Đề 6: Sự đa dạng mà thống nhất của phong cách nghệ thuật Hồ Chí Minh

Hướng dẫn ý chính cần nêu

1. Sự đa dạng (1,5 điểm)

Chủ yếu thể hiện ở sự đa dạng về thể loại, bút pháp và giọng văn 

- Văn chính luận: bộc lộ tư duy sắc sảo ,giàu tri thức văn hoá,gắn lí luận với thực tiễn,giàu tính luận chiến, đa dạng về bút pháp , giọng văn hùng hồn dõng dạc, giọng điệu đa dạng .

- Truyện và kí: giàu chất trí tuệ , tính hiện đại, tính chiến đấu , ngòi bút chủ động,sáng tạo,khi là lối kể chân thực,gần gũi,khi châm biếm sắc sảo,thâm thuý,tinh tế. Phối hợp linh hoạt giữa chất hiện đại với cách kể truyền thống, lối trào phúng giàu chết trí tuệ, giọng văn khi nghiêm trang, khi hài hước.

- Thơ ca: phong cách đa dạng vừa cổ điển vừa hiện đại,nhiều bài cổ thi hàm súc, uyên thâm, nhiều bài vận dụng nhiều thể thơ phục vụ hiệu quả cho nhiệm vụ cách mạng. 

2. Sự thống nhất (0,5đ)

Chủ yếu thể hiện ở sự nhất quán về quan điểm sáng tác và tư tưởng, tình cảm; nhất quán về nghệ thuật: cách viết thường ngắn gọn, trong sáng, giản dị, thường vận dụng linh hoạt nhiều thủ pháp và bút pháp khác nhau.



***********************************************




Đề 7 : Đoạn mở đầu bản Tuyên ngôn Độc lập của Chủ Tịch Hồ Chí Minh được viết rất cao tay: vừa khéo léo vừa kiên quyết lại hàm chứa nhiều ý nghĩa sâu sắc. Hãy phân tích để làm sáng tỏ điều đó.

* Dàn bài chi tiết


I. MỞ BÀI

Tuyên ngôn Độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh được xem như là mẫu mực của loại văn nghị luận. Điều đó thể hiện rõ trong đoạn mở đầu được viết rất cao tay: vừa khéo léo vừa kiên quyết lại hàm chứa nhiều ý nghĩa sâu sắc. 

II. THÂN BÀI

1/ Nhiệm vụ của phần mở đầu một bản Tuyên ngôn là nêu nguyên lí làm cơ sở tư tưởng cho toàn bài. Nguyên lí của Tuyên ngôn độc lập là khẳng định quyền tự do độc lập của dân tộc. Nhưng ở đây Bác không nêu trực tiếp nguyên lí ấy mà lại dựa vào hai bản Tuyên ngôn Độc lập của Mĩ năm 1776 và Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Pháp năm 1791 để khẳng định “Quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do” của tất cả các dân tộc trên thế giới. Đây chính là nghệ thuật “Lấy gậy ông đập lưng ông”. 

2/ Bác đã khẳng định quyền độc lập, tự do của dân tộc ta bằng chính những lời lẽcủa tổ tiên người Mĩ, người Pháp đã ghi lại trong hai bản Tuyên ngôn từng làm vẻ vang cho truyền thống tư tưởng và văn hóa của những dân tộc ấy. Cách viết như thế là vừa khéo léo vừa kiên quyết: 

- Khéo léo vì tỏ ra rất trân trọng những danh ngôn bất hủ của người Pháp, người Mĩ để “khoá miệng” bọn đế quốc Pháp, Mĩ đang âm mưu xâm lược và can thiệp vào nước ta (sự thật lịch sử đã chứng tỏ điều này). 

- Kiên quyết vì nhắc nhở họ đừng có phản bội tổ tiên mình, đừng có làm dấy bùn lên lá cờ nhân đạo của những cuộc cách mạng vĩ đại của nước Pháp, nước Mĩ, nếu nhất định tiến quân xâm lược Việt Nam. 

3/ Đoạn mở đầu bản Tuyên ngôn Độc lập của Việt Nam mà nhắc đến hai bản Tuyên ngôn nổi tiếng trong lịch sử của nhân loại của hai nước lớn như thế, thì cũng có nghĩa là đặt ba cuộc cách mạng ngang hàng nhau, ba nền độc lập ngang hàng nhau, ba bản Tuyên ngôn ngang hàng nhau (và thực sự, cuộc cách mạng tháng Tám 1945 đã giải quyết đúng nhiệm vụ của hai cuộc cách mạng của Mĩ (1776) và của Pháp (1791). 

- Sau khi nhắc đến những lời bất hủ trong bản Tuyên ngôn Độc lập của Mĩ, Bác viết: “Suy rộng ra, câu ấy có nghĩa là: tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng; dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”. Ý kiến “Suy rộng ra”ấy quả là một đóng góp đầy ý nghĩa của Bác đối với phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới, nó như phát súng lệnh khởi đầu cho bão táp cách mạng ở các thuộc địa sẽ làm sụp đổ chủ nghĩa thực dân trên khắp thế giới vào nửa sau thế kỉ XX (lịch sử cũng đã chứng tỏ điều này). 

III. KẾT BÀI

Đoạn mở đầu Tuyên ngôn Độc lập của Bác chứa đựng một tư tưởng lớn với nhiều ý nghĩa sâu sắc, lại được viết bằng một nghệ thuật cao tay, mang sức thuyết phục mạnh mẽ. Đó là một đoạn mở đầu mẫu mực trong một bản Tuyên ngôn bất hủ

***

Một số đề tương tự 

Đề : Phân tích ý nghĩa cách mở đầu của Tuyên ngôn độc lập.
+ Phân tích đề

- Nội dung: ý nghĩa cách mở đầu của Tuyên ngôn độc lập

- Hình thức: phân tích cụ thể.

+ Hướng dẫn:

- Ý nghĩa phần mở đầu trong một tuyên ngôn: nêu những nguyên lí chung, cơ sở pháp lí của tuyên ngôn.

- Ý nghĩa cách mở đầu của Tuyên ngôn độc lập:

• Mô tả (mở đầu như thế nào)

• Ý nghĩa (trọng tâm)

• Trích dẫn sáng tạo

- Đánh giá:

• Khẳng định: cách mở đầu xúc tích, khéo léo, sáng tạo.

• Mở đầu cho hệ thống lập luận chặt chẽ của tác phẩm.


**********************************************************************

Đề : Phân tích phần mở đầu bản "Tuyên ngôn Độc lập" để làm nổi bật giá trị nội dung tư tưởng và nghệ thuật lập luận của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Bài làm

Bản "Tuyên ngôn Độc lập" ngày 2.9.1945 là một văn kiện có giá trị và ý nghĩa lịch sử to lớn: tuyên bố thủ tiêu chế độ thực dân và phong kiến trên đất nước ta, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, mở ra kỉ nguyên mới độc lập, tự do của dân tộc.

Bản "Tuyên ngôn Độc lập", do Hồ Chí Minh soạn thảo, trong đoạn văn mở đầu có giá trị nổi bật về tư tưởng và nghệ thuật lập luận, tiêu biểu cho phong cách chính luận của Người.

1. Về nội dung tư tưởng, Hồ Chí Minh đã chỉ ra và khẳng định: quyền bình đẳng, quyền được sống, quyền được tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc là những quyền thiêng liêng của con người "không ai có thể xâm phạm được". Nhân quyền là cao cả thiêng liêng, bởi lẽ"Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi".

Nội dung tư tưởng của đoạn văn mở đầu bản "Tuyên ngôn Độc lập" càng trở nên sâu sắc vì từ những quyền thiêng liêng của con người, Chủ tịch Hồ Chí Minh nâng lên quyền của các dân tộc: "tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do". Tư tưởng vĩ đại ấy không chỉ thể hiện khát vọng về độc lập tự do của nhân dân ta mà còn phản ánh khát vọng của các dân tộc nhược tiểu, phản ánh xu thế giải phóng dân tộc sau thế chiến thứ hai. Đó là "cống hiến nổi tiếng của Cụ Hồ Chí Minh" (Giáo sư Singô Sibata - Nhật Bản).

2. Nghệ thuật lập luận trong đoạn mở đầu cũng rất đặc sắc. "Tuyên ngôn Độc lập" có kết cấu 3 phần rất chặt chẽ: định đề - phản đề - tuyên bố.

Ở phần định đề, Hồ Chí Minh trích dẫn hai đoạn văn tiêu biểu nhất nói về nhân quyền và dân quyền trong bản "Tuyên ngôn Độc lập" năm 1776 của nước Mĩ và bản "Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp" năm 1791. Mĩ và Pháp là hai quốc gia vĩ đại; nhân quyền và dân quyền là tư tưởng vĩ đại, là khát vọng của con người, là chân lí có ý nghĩa phổ quát, không ai có thể chối cãi được. Cách trích dẫn của Bác rất chuẩn mực theo thứ tự thời gian (1776-1791), trên hai châu lục khác nhau (châu Mĩ, châu Âu), hai quốc gia khác nhau (nước Mĩ, nước Pháp), nhưng lại tương đồng về tư tưởng nhân quyền và dân quyền. Từ quyền thiêng liêng của con người, Hồ Chí Minh "suy rộng ra" nói đến quyền tự quyết của các dân tộc. Từ trích dẫn đi đến khẳng định: "Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được". Cách lập luận ấy rất chặt chẽ, đanh thép, giàu sức thuyết phục.

Nghệ thuật trích dẫn của Hồ Chí Minh đã chỉ ra khát vọng về độc lập tự do của nhân dân ta, ca ngợi tầm vóc vĩ đại của cuộc Cách mạng tháng Tám. Người vừa tranh thủ được sự đồng tình, ủng hộ của các dân tộc trên thế giới, đồng thời ngầm cảnh báo những âm mưu đen tối của thực dân Pháp và bọn đế quốc rằng, chúng xâm lược nước ta là chính chúng đã chà đạp lên nhân quyền và quyền tự quyết của các dân tộc.

Cách mở bài rất đặc sắc, vì từ định đề mà chuyển sang phần phản đề, Hồ Chí Minh đã vạch trần bộ mặt xảo quyệt thâm độc của thực dân Pháp "lợi dụng lá cờ tự do, bình đẳng, bác ái đến cướp đất nước ta, áp bức đồng bào ta" trong suốt 80 năm trời, gây ra bao tội ác ghê tởm về chính trị, về kinh tế... Cách lập luận như thế rất chặt chẽ và hùng hồn.

Qua phần mở đầu "Tuyên ngôn Độc lập", ta còn thấy văn phong đặc sắc của Hồ Chí Minh: ngắn gọn, súc tích, thấm thía, rung động lòng người. "Tuyên ngôn Độc lập" là "lời Non Nước" cao cả và thiêng liêng.


***********************************************************


Đề 8: Kết thúc bản "Tuyên ngôn Độc lập", Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trịnh trọng tuyên bố rằng:
"Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy".

Dựa vào những hiểu biết về tác phẩm "Tuyên ngôn Độc lập", anh (chị) hãy phân tích đoạn văn trên để làm sáng tỏ những tư tưởng lớn của Người.

Bài làm

Cách mạng tháng Tám thành công. Ngày 2.9.1945, tại quảng trường Ba Đình, trước hơn nửa triệu đồng bào, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ Lâm thời đọc bản "Tuyên ngôn Độc lập". Áng văn này mang ý nghĩa lịch sử vô cùng trọng đại: tuyên bố thủ tiêu vĩnh viễn chế độ thực dân - phong kiến trên đất nước ta, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, mở ra một kỉ nguyên độc lập, tự do của dân tộc.

Kết thúc bản "Tuyên ngôn Độc lập", Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trịnh trọng tuyên bố: "Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy".

Một lời tuyên bố đanh thép và hùng hồn, đã kết tinh một cách sáng ngời những nội dung cơ bản của "Tuyên ngôn Độc lập".

1. Trước hết, Hồ Chủ tịch khẳng định "Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập" vì đó là điều phù hợp với đạo lí và pháp lí. Đất nước và con người Việt Nam cũng như tất cả mọi quốc gia, mọi dân tộc và mọi người "đều sinh ra có quyền bình đẳng (...), có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc" ("Tuyên ngôn Độc lập" năm 1776 của nước Mĩ). "Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập" bởi lẽ "người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi, và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi" (Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp năm 1791).

Từ nhân quyền, Hồ Chủ tịch đã "suy rộng ra", nói đến quyền tự quyết của mọi dân tộc: "Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do". Lẽ phải ấy không ai chối cãi được và vô cùng thiêng liêng. Sau hơn 80 năm bị thực dân Pháp thống trị, lời tuyên bố "Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập" biểu lộ niềm tự hào dân tộc và khát vọng độc lập, tự do của đất nước và con người Việt Nam.

Cách mạng tháng Tám thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, "và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập". Đó là một thực tế lịch sử không ai chối cãi được. Hồ Chủ tịch đã vạch trần những tội ác dã man về chính trị, về kinh tế của thực dân Pháp đối với dân tộc ta trong suốt 80 năm trời. Chúng áp bức, bóc lột dân ta đến tận xương tủy, "khiến cho dân ta nghèo nàn, thiếu thốn, nước ta xơ xác, tiêu điều". Thực dân Pháp đã tước đoạt tự do, dìm nhân ta vào máu và nước mắt trong đêm trường nô lệ: "Chúng lập ra nhà tù nhiều hơn trường học. Chúng thẳng tay chém giết những người yêu nước thương nòi của ta. Chúng tắm các cuộc khởi nghĩa của ta trong những bể máu",... Thực dân Pháp chỉ trong vòng 5 năm (1940-1945), chúng đã bán nước ta hai lần cho Nhật. Pháp và Nhật đã gây ra nạn đói năm Ất Dậu (1945) làm cho hơn hai triệu đồng bào ta bị chết đói. Trước khi thua chạy (9.3.1945), bọn thực dân Pháp "còn nhẫn tâm giết nốt số đông tù chính trị ở Yên Bái và Cao Bằng".

"Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập". Đó là lẽ phải, là sự thật lịch sử không ai chối cãi được. Cách mạng tháng Tám bùng nổ và thắng lợi, "dân ta đã lấy lại nước Việt Nam từ tay Nhật, chứ không phải từ tay Pháp". Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời khi ba kẻ thù bị lật đổ, thất bại: "Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị". Độc lập và tự do là thành quả đấu tranh và cách mạng bền bỉ, gan góc, lâu dài của dân tộc ta:
"Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn 80 năm nay, một dân tộc đã gan góc đứng về phe Đồng minh chống phát xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do ! Dân tộc đó phải được độc lập !".

Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời là một sự thật lịch sử, nên Hồ Chủ tịch mới tuyên bố một cách đanh thép, hùng hồn: "Tuyên bố thoát li hẳn quan hệ thực dân với Pháp, xóa bỏ hết những hiệp ước mà Pháp đã kí về nước Việt Nam, xóa bỏ tất cả mọi đặc quyền của Pháp trên đất nước Việt Nam".

2. Độc lập tự do là khát vọng, là ý chí của đất nước và con người Việt Nam, của dân tộc Việt Nam. Lời tuyên bố vang lên như một lời thề thiêng liêng làm chấn động lòng người: "Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy".

Cụm từ "Toàn thể dân tộc Việt Nam" nói lên sức mạnh đại đoàn kết, triệu triệu con người Việt Nam kết thành một khối mà không thể một kẻ thù tàn bạo nào có thể khuất phục được ! "Tự do hay là chết !", "Dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải giành lại nền độc lập !". Quyết tâm ấy được Hồ Chủ tịch tuyên bố đanh thép hùng hồn. Triệu triệu con người Việt Nam "quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy".

Lời tuyên bố của Hồ Chủ tịch là lời cảnh cáo nghiêm khắc đối với thực dân Pháp đang âm mưu tái chiếm Việt Nam một lần nữa, đồng thời kêu gọi toàn thể dân tộc Việt Nam sẵn sàng chiến đấu hi sinh cho độc lập, tự do của Tổ quốc. Ba mươi năm kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ của nhân dân ta đã thể hiện một cách hùng hồn lời tuyên bố mạnh mẽ ấy. Đó là khát vọng, là ý chí sắt đá về độc lập tự do của dân tộc ta, của nhân dân ta. Một lần nữa, Người lại Tuyên bố: "Chúng ta thà hi sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ !". (Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến - 19.12.1946).

Hơn nửa thế kỉ đã trôi qua, kể từ ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc "Tuyên ngôn Độc lập": Những chặng đường lịch sử vẻ vang của dân tộc ta đã trải qua rất đáng tự hào: Cách mạng tháng Tám - Chiến thắng Điện Biên oai hùng - Chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng - Non sông liền một dải, Bắc Nam sum họp một nhà...

"Tuyên ngôn Độc lập" xứng đáng là một áng "thiên cổ hùng văn". Nó đã kế tục truyền thống vinh quang của "Nam quốc sơn hà", của "Bình Ngô đại cáo". Nó là lời Non Nước cao cả và thiêng liêng, thể hiện sâu sắc tư tưởng vĩ đại: "Không có gì quý hơn độc lập tự do", biểu lộ ý chí và sức mạnh Việt Nam.

Đọc đoạn văn cuối bản "Tuyên ngôn Độc lập", chúng ta càng thấm thía tự hào về độc lập, tự do mà dân tộc ta đã giành được bằng xương máu của bao thế hệ, của bao anh hùng liệt sĩ.



*****************************************************************************************





Đề 9 : Phân tích giá trị lịch sử của bản "Tuyên ngôn độc lập". Nêu một vài cảm nhận về phong cách nghệ thuật trong văn chính luận của Hồ Chí Minh qua bản "Tuyên ngôn Độc lập" này.

Bài làm

Ngày 19-8-1945, chính quyền ở thủ đô Hà Nội đã về tay nhân dân ta. 23-8 tại Huế, trước 15 vạn đồng bào ta, vua Bảo Đại tuyên bố thoái vị. Ngày 25-7, hơn 80 vạn đồng bào Sài Gòn, Chợ Lớn, quật khởi đứng lên giành chính quyền. Chỉ không đầy mười ngày, Tổng khởi nghĩa và Cách mạng tháng Tám đã thành công rực rỡ. Chế độ thực dân kéo dài 80 năm cùng với chế độ phong kiến hàng ngàn năm sụp đổ tan tành.

Ngày 2-9-1945, tại quảng trường Ba Đình, Hà Nội, thay mặt Chính phủ lâm thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh trịnh trọng đọc bản "Tuyên ngôn Độc lập", khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, mở ra một kỉ nguyên mới Độc lập, Tự do. Hà Nội tưng bừng màu đỏ, cả một vùng trời bát ngát cờ, đèn và hoa.

Đọc bản "Tuyên ngôn Độc lập" đến nửa chừng, Hồ Chủ tịch dùng lại và bỗng dưng hỏi: "Tôi nói, đồng bào nghe rõ không ?". Tức thì một tiếng "có" của một triệu con người cùng đáp, vang dậy như sấm.
"Việt Nam độc lập muôn năm !" - Một triệu con người, một triệu tiếng hô cùng hòa làm một, vang dội núi sông, khi Hồ Chủ tịch vừa kết thúc bản Tuyên ngôn:

"Nước Việt Nam có quyền được hưởng tự do và độc lập và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mệnh và của cải để giữ quyền tự do và độc lập ấy".

Có thể nói: bản "Tuyên ngôn Độc lập" thể hiện một cách hùng hồn khát vọng, ý chí và sức mạnh Việt Nam. Nó có một giá trị lịch sử vô cùng to lớn. Nó phản ánh môt cách tập trung nhất, tiêu biểu nhất phong cách nghệ thuật trong văn chính luận của Hồ Chí Minh.

Nếu như "Nam quốc sơn hà" của Lý Thường Kiệt mở đầu bằng một lời tuyên ngôn đanh thép: "Nam quốc sơn hà Nam đế cư", "Bình Ngô đại cáo" khẳng định một chân lí lịch sử: "Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân - Quân điếu phạt trước lo trừ bạo", thì "Tuyên ngôn Độc lập" lại mở đầu bằng cách trích dẫn hai câu nổi tiếng trong hai bản "Tuyên ngôn Độc lập" nổi tiếng trên thế giới.

Câu thứ nhất trích dẫn từ bản "Tuyên ngôn Độc lập" của nước Mĩ năm 1776: "Tất cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do, và quyền mưu cầu hạnh phúc".

Câu thứ hai rút ra từ bản "Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền" của Cách mạng Pháp năm 1791: "Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lời, và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi".

Hồ Chí Minh không chỉ trích dẫn mà còn bình luận, suy rộng ra: "tất cả các dân tộc trên thế giới sinh ra đều bình đẳng; dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do", và đi tới khẳng định: "Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được". Qua đó, ta thấy ý tưởng cao cả, sâu sắc của Hồ Chí Minh là từ sự xác nhận và đề cao một lí tưởng thời đại về tự do, bình đẳng, bác ai, về nhân quyền đi đến một yêu cầu, một khát vọng cháy bỏng và vô cùng thiêng liêng của nhân dân Việt Nam là độc lập dân tộc. Và "Độc lập - Tự do - Hạnh phúc" là mục tiêu phấn đấu của nhân dân ta, của cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Ngoài ra, việc trích dẫn ấy còn là để tranh thủ sự đồng tình ủng hộ rộng lớn của dư luận tiến bộ trên thế giới nhất là đối với các cường quốc năm châu. Như vậy, khi ta nói đến giá trị lịch sử của "Tuyên ngôn Độc lập" trước hết phải nói đến dụng ý chiến lược và chiến thuật của việc trích dẫn hai câu nổi tiếng trong hai bản "Tuyên ngôn Độc lập" của Mỹ và Pháp.

Giọng văn từ trang nghiêm, trang trọng chuyển thành hùng hồn, căm giận khi Hồ Chủ tịch vạch trần và lên án tội ác của thực dân Pháp đối với nhân dân ta trong gần một thế kỉ qua. Bộ mặt của chúng vô cùng xảo quyệt và dã man "lợi dụng lá cờ tự do, bình đẳng, bác ái, đến cướp đất nước ta, áp bức đồng bào ta". Tác giả đã điểm qua một cách khái quát và điển hình tội ác của thực dân Pháp trên các lĩnh vực về chính trị, kinh tế và những tội ác khác chồng chất như núi. Đó là 5 tội ác ghê tởm về chính trị và 5 tội ác cực kì dã man về kinh tế của chúng.

Năm tội ác lớn về chính trị là tước đoạt quyền tự do dân chủ; luật pháp dã man, chia để trị; đàn áp và khủng bố, thi hành chính sách ngu dân; đầu độc bằng rượu cồn và thuốc phiện "để làm cho nòi giống ta suy nhược". Trong "Bình Ngô đại cáo", Nguyễn Trãi đã nói về tội ác của quân "cuồng Minh": "Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn - Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ". Hơn 500 năm sau, trong "Tuyên ngôn Độc lập", người anh hùng giải phòng dân tộc Hồ Chí Minh cũng viết: "Chúng lập ra nhà tù nhiều hơn trường học. Chúng thẳng tay chém giết những người yêu nước thương nòi của ta. Chúng tắm các cuộc khởi nghĩa của ta trong những bể máu".

Đó là những bằng chứng không ai chối cãi được. Câu văn ngắn, đanh thép, hùng hồn. Chữ "chúng" được nhắc lại nhiều lần đầy ám ảnh. Cách so sánh cụ thể, mỉa mai (lập ra nhà tù nhiều hơn trường học). Cách dùng vị ngữ, trạng ngữ xác đáng (thẳng tay chém giết), cách dùng hình ảnh (bể máu) - tất cả tạo nên phong cách chính luận Hồ Chí Minh: súc tích, lập luận chặt chẽ, đanh thép, lời lẽ hùng hồn đầy sức thuyết phục.

Năm tội ác về kinh tế của thực dân Pháp là bóc lột dân ta đến tận xương tủy, khiến cho "dân ta nghèo nàn, thiếu thốn, nước ta xơ xác, tiêu điều"; cướp không ruộng đất, hầm mỏ, nguyên liệu; độc quyền in gấy bạc, xuất cảng và nhập cảng v.v... Lên án chính sách sưu thuế vô nhân đạo của chúng, tác giả căm giận viết: "Chúng đặt ra hàng trăm thứ thuế vô lí, làm cho dân ta, nhất là dân cày và dân buôn, trở nên bần cùng". Hàng trăm thứ thuế vô lí ấy của thực dân Pháp đã bóc lột dân ta đến tận xương tủy:

... "Các hạng thuế, các làng tăng mãi,
Hết đinh điền rồi lại trâu bò,
(...) Làm cho thập thất cửu không,
Làm cho đau đớn khôn cùng không thôi !..."

("Đề tỉnh quốc dân ca" - 1906)

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vạch trần bộ mặt hèn nhát và phản bội của thực dân Pháp. Mùa thu năm 1940, thực dân Pháp "quỳ gối đầu hàng, mở cửa nước ta, rước Nhật". Pháp và Nhật đã cấu kết với nhau, bóc lột dân ta thậm tệ, gây ra thảm họa năm Ất Dậu, 1945: "Từ đó, dân ta chịu hai tầng xiềng xích: Pháp và Nhật. Từ đó, dân ta sống cực khổ, nghèo nàn. Kết quả là cuối năm ngoái sang đầu năm nay, từ Quảng Trị đến Bắc Kì, hơn hai triệu đồng bào ta bị chết đói !".

Sự hèn hạ, tàn ác của thực dân Pháp không thể nào kể xiết ! Ngày 9-3-1945 Nhật đảo chính Pháp "quân Pháp bỏ chạy hoặc đầu hàng". Tác giả châm biếm lên án: "Chúng chẳng những không "bảo hộ" được ta, trái lại trong 5 năm chúng bán nước ta hai lần cho Nhật !". Thậm tệ và tàn nhẫn hơn nữa là trước khi rút chạy "chúng còn nhẫn tâm giết nốt số đông tù chính trị ở Yên Bái và Cao Bằng".

Bằng cách lập luận chặt chẽ, đanh thép, hùng hồn, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định một sự thật lịch sử: Từ năm 1940 trở đi, nước ta đã trở thành thuộc địa của Nhật, chứ không phải thuộc địa của Pháp nữa. Việt MInh đã lãnh đạo nhân dân nổi dậy giành chính quyền lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Để đập tan luận điệu của Đờ Gôn và bọn thực dân phản động Pháp đang âm mưu "tái chiếm" Đông Dương, Hồ Chí Minh hùng hồn tuyên bố: "Sự thật là dân ta đã lấy lại nước Việt Nam từ tay Nhật, chứ không phải từ tay Pháp".

"Tuyên ngôn Độc lập" có giá trị lịch sử to lớn. Tác giả chỉ rõ một cục diện chính trị mới: "Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị". Từ nô lệ, dân ta đã giành được độc lập: "Dân ta đã đánh đổ các xiềng xích thực dân gần 100 năm nay để gây dựng nên nước Việt Nam độc lập". Một chế độ mới, một nhà nước mới ra đời: "Dân ta lại đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỉ mà lập nên chế độ Dân chủ Cộng hòa".

Phần tiếp theo là lời tuyên bố sáng ngời chính nghĩa, thể hiện một quyết tâm sắt thép, không một thế lực thù địch nào có thể lay chuyển nổi. Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng trên lập trường dân tộc kêu gọi các nước Đồng minh "công nhận quyền độc lập của nhân dân Việt Nam". Đồng thời mạnh mẽ tuyên bố: "thoát li hẳn quan hệ với Pháp, xóa bỏ hết những hiệp ước mà Pháp đã kí về nước Việt Nam, xóa bỏ tất cả mọi đặc quyền của Pháp trên đất nước Việt Nam". Tác giả tự hào nêu cao truyền thống anh hùng bất khuất chống thực dân, chống phát xít của dân tộc ta và khẳng định: "Dân tộc đó phải được tự do ! Dân tộc đó phải được độc lập !".

Kết thúc bản "Tuyên ngôn Độc lập" là một lời tuyên bố mang ý nghĩa lịch sử như một lời thề thiêng liêng, thể hiện sâu sắc khát vọng độc lập, tự do của nhân dân ta, biểu thị quyết tâm và sức mạnh Việt Nam: "Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải, để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy".

2. "Tuyên ngôn Độc lập" đã thể hiện một cách cao đẹp và sáng tỏ phong cách chính luận của Hồ Chí Minh. Bác viết văn làm thơ là để phục vụ cách mạng. Trước lúc cầm bút, Người tự hỏi: "Viết nhằm mục đích gì ? Viết cho ai ? Viết về vấn đề gì ? Viết như thế nào ?". Đối tượng của "Tuyên ngôn Độc lập" không chỉ nói với nhân dân Việt Nam mà còn để nói với thế giới, đặc biệt là để nói với bọn đế quốc, thực dân đang âm mưu tái chiến Việt Nam. Mọi lí lẽ, luận cứ đều tập trung hướng về những đối tượng ấy và khẳng định quyền độc lập, tự do của nhân dân ta.

Những luận cứ được Hồ Chủ tịch nêu lên trong bản "Tuyên ngôn Độc lập" là những bằng chứng không thể chối cãi được. Chỉ một lời vạch tội, một mũi tên mà bắn trúng hai đích: "Chúng lập ra nhà tù nhiều hơn trường học". Đó là chính sách đàn áp khủng bố và ngu dân của thực dân Pháp.

Lối viết ngắn gọn, hàm súc, đầy thuyết phục. Chỉ một câu 9 từ mà nêu bật một cục diện chính trị: "Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị". Cách dùng từ ngữ của Bác rất chính xác, gợi cảm. Văn chính luận, bản chất của nó là lí lẽ và cách lập luận. Thế nhưng, có lúc xuất hiện những hình ảnh cực kì xúc động: "Chúng tắm các cuộc khởi nghĩa của ta trong những bể máu". Cách dùng từ ngữ, nhất là động từ, trạng ngữ vừa chính xác vừa đanh thép: "thẳng tay chém giết...", "thoát li hẳn...", "xóa bỏ hết...", "xóa bỏ tất cả...". Văn phong của Bác rất nhuần nhị, uyển chuyển trong cách sử dụng điệp từ điệp ngữ, cấu trúc cân xứng, trùng điệp, tăng cấp... tạo nên những câu văn đẹp, ý tưởng sâu sắc, đầy ấn tượng:

"Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn 80 năm nay, một dân tộc đã gan góc đứng về phe Đồng minh chống phát xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do ! Dân tộc đó phải được độc lập !".

Hồ Chí Minh đã viết "Tuyên ngôn Độc lập" vào hạ tuần tháng Tám năm 1945, tại căn nhà số 48 phố Hàng Ngang, Hà Nội, ngay sau ngày Người từ chiến khu Việt Bắc về tới thủ đô (26-8-1945). Hồ Chí Minh đã có lần nói, suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, chỉ có lúc soạn thảo "Tuyên ngôn Độc lập" là "những giờ phút sảng khoái nhất" của Người.

Bản "Tuyên ngôn Độc lập" đã kế thừa và phát triển bài thơ "Thần" của Lý Thường Kiệt, "Bình Ngô đại cáo" của Nguyễn Trãi. Nó là bản anh hùng ca của thời đại Hồ Chí Minh. Nó nói lên khát vọng độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam anh hùng. Với giá trị lịch sử to lớn, với lập luận chặt chẽ, sắc bén đanh thép, hùng hồn, bản "Tuyên ngôn Độc lập" là một nét chói lọi góp phần làm rạng rỡ nền văn hiến Việt Nam. Trong cuốn hồi kí "Những năm tháng không thể nào quên", Đại tướng Võ Nguyên Giáp có viết:"Bản án chế độ thực dân Pháp" đã có từ 30 năm trước đây. Nhưng hôm nay mới chính là ngày chế độ thực dân Pháp bị đưa ra cho toàn dân Việt Nam công khai xét xử. Lịch sử đã sang trang. Một kỉ nguyên mới bắt đầu: Kỉ nguyên Độc lập, Tự do, Hạnh phúc... Cả dân tộc đã hồi sinh. Vô vàn khó khăn còn ở phía trước mắt. Nhưng đối với bọn đế quốc, muốn phục hồi lại thiên đàng đã mất, mọi việc cũng không còn dễ dàng như xưa".
"Tuyên ngôn Độc lập" là thành quả chiến đấu trong suốt 80 năm của nhân dân ta, là sự kết tinh bằng máu của hàng triệu con người Việt Nam:

"Tự do đã nở hoa hồng,
Trong dòng máu đỏ, trên đồng Việt Nam".


(Tố Hữu)​


(Sưu tầm)​


**************************************************************


Đề 10: Cơ sở thực tiễn và cơ sở pháp lí của "Tuyên ngôn độc lập" 

Hướng dẫn làm bài 

1.Cơ sở pháp lí 

Nêu và khẳng định quyền con người và quyền dân tộc:

- Trích dẫn 2 bản Tuyên Ngôn:

+ Tuyên ngôn độc lập của Mĩ (1776)

+ Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Pháp (1791)

-> nêu lên nguyên lí cơ bản về quyền bình đẳng, độc lập của con người .

* Ý nghĩa của viêc trích dẫn:

- Có tính chiến thuật sắc bén, khéo léo, khóa miệng đối phương.

-Khẳng định tư thế đầy tự hào của dân tộc( đặt 3 cuộc Cáchmạng, 3 nền độc lập, 3 bản Tuyên Ngôn ngang tầm nhau.)

* Lập luận sáng tạo :

" Suy rộng ra.." “ -> từ quyền con người nâng lên thành quyền dân tộc.

* Tóm lại: Với lời lẽ sắc bén, đanh thép, Người đã xác lập cơ sở pháp lý của bản TN, nêu cao chính nghĩa của ta. Đặt ra vấn đề cốt yếu là độc lập dân tộc.


2.Cơ sở thực tiễn của bản TN:

a. Tội ác của Pháp:

* Tội ác 80 năm: lợi dụng lá cờ tự do, bình đẳng..nhưng thực chất cướp nước,áp bức đồng bào ta,trái với nhân đao& chính nghĩa.

-Chứng cứ cụ thể :

+ Về chính trị: không có tự do, chia để trị ,đầu độc , khủng bố.

+ Về kinh tế: bóc lột dã man

-Đoạn văn có giá trị của bản cáo trạng súc tích,đanh thép, đầy phẩn nộ đối với tội ác tày trời của thực dân

* Tội ác trong 5 năm (40-45)

- Bán nước ta 2 lần cho Nhật (bảo hộ?)

- Phản bội đồng minh ,không đáp ứng liên minh cùng Việt Minh để chống Nhật, thậm chí thẳng tay khủng bố ,giết nốt tù chính trị ở Yên Bái,Cao Bằng.

*Lời kết án đầy phản nộ,sôi sục căm thù. Vừa:

->vạch trần thái độ nhục nhã của Pháp (quì gối ,đầu hàng ,bỏ chạy..)

->đanh thép tố cáo tội ác tày trời (từ đó,...từ đó..)

Đó là lời khai tử dứt khoát cái sứ mệnh bịp bợm của thực dân Pháp đối với nước ta ngót gần một thế kỉ.

b. Dân tộc VN (lập trường chính nghĩa)

- Gan góc chống ách nô lệ của Pháp trên 80 năm ...

- Gan góc đứng về phe đồng minh chống Phát xít.

- Khoan hồng với kẻ thù bị thất thế.

-Giành độc lập từ tay Nhật chứ không phải từ Pháp .

*Phương pháp biện luận chặt chẽ , lô gích, từ ngữ sắc sảo. Cấu trúc đặc biệt,nhịp điệu dồn dập,điệp ngữ"sự thật "như chân lí không chối cải được.Lời văn biền ngẫu.

C. Phủ định chế độ thuộc địa thực dân Pháp và khẳng định quyền độc lập, tự do của dân tộc

-Phủ định dứt khoát, triệt để...(thoát ly hẳn,xóa bỏ hết.....) mọi đặc quyền ,đặc lợi của thực dân Pháp với đất nước Việt Nam .

-Khẳng định mạnh mẽ quyền độc lập , tự do của dân tộc

*Hành văn: hệ thống móc xích

khẳng định tuyệt đối






**************************************************************************




Đề 11: Anh (chị) hãy trình bày hoàn cảnh ra đời, đối tượng và mục đích của bản Tuyên ngôn độc lập (Hồ Chí Minh)

I. Hoàn cảnh sáng tác

- Tháng 8/1945 nhân cơ hội Nhật đầu hàng Đồng Minh, Đảng đã lãnh đạo nhân dân khởi nghĩa,cướp chíng quyền, giành lại độc lập. Nền độc lập vừa giành lại được có nguy cơ bị đe dọa trước tình hình chính trị phức tạp.

- Trên thế giới, nội bộ phe đồng minh có mâu thuẫn giữa Anh.Pháp,Mĩ và Liên xô.thep nhận định của Đảng cộng sản VN trong hội nghị đảng toàn quốc 15/8/1945 thì mâhu thuẫn đó có thể dẫn đến việc "Anh và Mĩ nhân nhượng với Pháp, cho Pháp quay trỏ lại Đông Dương". Hơn nữa, Pháp đã dùng những chiêu bài,luận điệu xảo trá để che mắt dư luận thế giới như Khai hóa văn minh,bảo hộ thuộc địa...để quay trỏ lại xam lược nước ta lần nữa.....

- Trong nước,20 vạn quân Tưởng Giới Thạch ở miền bắc lấy danh nghĩa la giải giáp vũ khí quân Nhật nhưng thực chất là dọn đường cho Mĩ vào Đông Dương, phía nam quân Pháp lấp sau anh hòng chiếm lại Đông Nam Bộ...

- Trước tình hình đó , 26/8/1945 chủ tịch Hồ Chí Minh từ chiến khu Việt bắc quay trỏ về thủ đô Hà Nội.Tại căn nhà số 48, phố Hàng Ngang người đã soạn thảo bản "Tuyên ngôn độc lập".

- Ngày 2/9/1945 tại quảng trường Ba Đình, Hồ Chí Minh đã đọc bản tuyên ngôn khai sinh ra nước Việt Nam trước sự chứng kiến của hàng vạn đồng bào trong và ngoài nước.

II. Đối tượng sáng tác

- Thực dân Pháp - kẻ thù nguy hiểm nhất của nước Việt Nam mới

- Phe Đồng minh và nhân dân thế giới

- Toàn thể dân tộc Việt Nam

III. Mục đích sáng tác

-Răn đe.cảnh cáo trước dã tâm xâm lược của Pháp và Mĩ

-Tranh thủ sự ủng hộ.giúp đỡ của nhân dân thế giới

-Tuyên bố xóa bỏ chế độ thực dân ,khai sinh ra nươc Việt Nam độc lập

-Cổ vũ, khích lệ tinh thần của nhân dân Việt Nam

0 nhận xét:

Post a Comment

 
Toggle Footer